4

1,2Anh em nên nhớ, khi người thừa kế còn thơ ấu, dù có quyền làm chủ sản nghiệp, nhưng vẫn phải ở dưới quyền người giám hộ và quản gia — chẳng khác gì người nô lệ — cho đến tuổi thành niên.
3Chúng ta cũng thế: trước khi Chúa Cứu Thế đến, chúng ta phải làm nô lệ cho luật pháp và tục lệ cổ truyền vì tưởng những thứ ấy có thể cứu rỗi chúng ta. 4Nhưng đúng kỳ hạn, Thượng Đế sai Con Ngài xuống trần gian, do một người nữ sinh ra trong một xã hội bị luật pháp trói buộc, 5để giải phóng những người làm nô lệ của luật pháp, và cho họ quyền làm con Thượng Đế. 6Vì chúng ta là con Thượng Đế nên Ngài đã sai Thánh Linh của Chúa Cứu Thế ngự vào lòng chúng ta, giúp chúng ta gọi Thượng Đế bằng Cha. 7Như thế, chúng ta không còn làm nô lệ nữa, nhưng làm con Thượng Đế. Đã là con, chúng ta cũng được thừa hưởng cơ nghiệp của Thượng Đế.

Phao-lô lo ngại cho người Ga-la-ti

8Ngày trước, anh em không biết Thượng Đế, nên đã làm nô lệ cho những thần linh giả tạo. 9Ngày nay, anh em đã tìm gặp Thượng Đế, hay đúng hơn Thượng Đế đã tìm gặp anh em, sao anh em còn quay lại làm nô lệ cho những giáo lý rỗng tuếch, vô dụng ấy? 10Anh em còn giữ ngày, tháng, mùa, năm làm gì? 11Tôi lo ngại cho anh em. Tôi sợ rằng công lao khó nhọc của tôi hóa ra vô ích.
12Thưa anh em thân yêu, xin anh em theo gương tôi, vì cũng như anh em, tôi đã từng thoát ách nô lệ của luật pháp. 13Anh em còn nhớ, trong lúc đau yếu, tôi đã đến truyền giảng Phúc âm cho anh em lần thứ nhất. 14Mặc dù bệnh hoạn của tôi có thể làm cho anh em khó chịu, nhưng anh em không khước từ, ruồng rẫy tôi. Trái lại, anh em đã tiếp đón tôi như thiên sứ của Thượng Đế, như chính Chúa Cứu Thé vậy. 15Nhiệt tình chan chứa ấy bây giờ ở đâu? Lúc ấy, anh em yêu mến tôi đến mức sẵn sàng móc mắt tặng tôi. 16Thế mà nay anh em xem tôi như người thù, có phải vì nói thật mất lòng anh em không?
17Tôi biết có những người hết sức chiều chuộng anh em với dụng ý không tốt đẹp. Họ chỉ muốn chia rẻ anh em với tôi để anh em lệ thuộc họ và hăng hái phục vụ họ. 18Tỏ nhiệt tình quý mến chân thành bao giờ cũng là một cứ chỉ đẹp, nhưng sao họ phải đợi lúc tôi có mặt mới lo chiều chuộng anh em? — 19Các con thơ bé ơi, các con làm cho ta đau đớn như người mẹ quặn thắt, đợi chờ đứa con lọt lòng, mong mỏi đến lúc hình dạng Chúa Cứu Thế nổi bật trong các con! — 20Ước gì tôi có mặt bên anh em ngay giờ phút này để nói cho cạn lời, chứ xa xôi cách trở, viết không thể nào hết ý.

Hai dòng dõi

21Anh em đã muốn phục tùng luật pháp để được cứu rỗi, không lẽ anh em không biết luật pháp nói gì sao? 22Kinh luật chép rằng Áp-ra-ham có hai con trai, một người con của vợ nô lệ, một người con của vợ tự do. 23Người vợ nô lệ sinh con theo công lệ, nhưng người vợ tự do sinh con do lời hứa của Thượng Đế. 24Chuyện ấy tượng trưng cho hai giao ước, là phương pháp Thượng Đế cứu giúp dân Ngài. Thượng Đế ban hành luật pháp trên núi Si-nai để dân Ngài vâng giữ. 25Núi Si-nai — người Á-rạp gọi là núi A-ga theo tên người mẹ nô lệ — chỉ về Giê-ru-sa-lem hiện nay, vì thành phố ấy là thủ đô của dân tộc làm nô lệ cho luật pháp. 26Còn mẹ chúng ta là Giê-ru-sa-lem tự do trên trời, không bao giờ làm nô lệ. 27Tiên tri Ê-sai đã viết: “Này, người nữ son sẻ, hãy hân hoan! Người nữ chưa hề sinh con, hãy reo mừng! Vì Ta sẽ cho ngươi con đàn cháu đống. Con cái ngươi sẽ nhiều hơn của người nữ đông con!” 28Thưa anh em, chúng ta là con cái sinh ra theo lời hứa, như Y-sác ngày xưa. 29Ngày nay, chúng ta là người do Thánh Linh sinh thành vẫn bị người lệ thuộc luật pháp bức hại, buộc chúng ta phải vâng giữ luật pháp, chẳng khác gì ngày xưa Y-sác, con sinh ra theo lời hứa, bị Ích-ma-ên, con của người nô lệ, chèn ép. 30Theo Thánh kinh, Áp-ra-ham phải đuổi người vợ nô lệ và con trai nàng, vì con trai người nô lệ không được quyền thừa kế với con trai người tự do. 31Thưa anh em, chúng ta không phải là con của người nô lệ, nhưng con của người tự do.