15

Năm sa-bát

(Lê 25:1-17)

1“Vào cuối mỗi bảy năm anh em phải tha nợ. 2Đây là cách thức tha nợ: Mỗi chủ nợ sẽ tha món nợ mà mình đã cho người lân cận vay, không được thúc ép người lân cận hay anh em mình phải trả, vì lệnh tha nợ của Đức Giê-hô-va đã được công bố. 3Anh em có thể thúc ép người ngoại quốc trả nợ nhưng với anh em mình thì phải xóa bất cứ món nợ nào mà họ đã mắc với anh em. 4Giữa anh em sẽ không có người nghèo khó vì Đức Giê-hô-va chắc chắn sẽ ban phước cho anh em khi sống trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm cơ nghiệp, 5miễn là anh em chăm chú lắng nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời và cẩn thận làm theo các điều răn mà tôi truyền cho anh em ngày nay. 6Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ ban phước cho anh em như Ngài đã hứa. Anh em sẽ cho nhiều nước vay nhưng anh em không vay mượn ai cả; anh em sẽ cai trị nhiều nước nhưng các nước ấy sẽ chẳng cai trị anh em.
7Nếu giữa anh em có người anh em nghèo khó, sống trong các thành của xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ban cho, thì chớ cứng lòng hoặc bo bo giữ của đối với những người lân cận nghèo khó của mình. 8Nhưng hãy mở rộng tay mình, cho người ấy vay bất cứ thứ gì họ cần. 9Hãy cẩn thận, đừng nuôi dưỡng tư tưởng xấu xa trong lòng anh em rằng: ‘Sắp đến năm thứ bảy là năm tha nợ rồi’ và nhìn anh em túng thiếu của mình với ánh mắt ghét bỏ, không giúp gì cho họ cả. Họ sẽ khiếu nại với Đức Giê-hô-va về anh em và anh em sẽ phải mang tội. 10Anh em hãy sẵn lòng giúp đỡ họ, đừng làm cách miễn cưỡng, vì nhờ vậy mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ ban phước cho mọi công việc của anh em và mọi công trình mà tay anh em thực hiện. 11Vì trong xứ lúc nào cũng có người nghèo nên tôi truyền dặn anh em rằng: ‘Hãy mở rộng bàn tay giúp đỡ người túng thiếu, nghèo khó trong xứ anh em.’”

Trả tự do cho các nô lệ

(Xuất 21:1-11)

12“Khi một anh em hay chị em là người Hê-bơ-rơ bán mình cho anh em, thì họ sẽ phục vụ anh em trong sáu năm, nhưng đến năm thứ bảy thì anh em phải trả tự do cho họ. 13Khi trả tự do cho họ anh em đừng để họ đi ra tay không. 14Phải cung cấp cho họ đầy đủ chiên bò từ bầy gia súc, các sản phẩm từ sân đập lúa, từ hầm ép rượu, tức là từ những gì mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban phước cho anh em. 15Hãy nhớ rằng anh em đã từng làm nô lệ trong đất Ai Cập và Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã cứu chuộc anh em. Vì thế mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em điều nầy. 16Nhưng nếu người nô lệ nói: ‘Tôi không muốn ra khỏi nhà ông’, vì người ấy quý mến anh em và gia quyến anh em cũng như cảm thấy thỏa lòng khi ở với anh em, 17thì bấy giờ anh em phải lấy một cái dùi kê tai người ấy vào cửa mà xỏ tai, và người ấy sẽ làm nô lệ suốt đời cho anh em. Anh em cũng làm tương tự với các nữ nô lệ. 18Anh em đừng cho là nặng nề khi phải trả tự do cho họ vì họ đã phục dịch anh em sáu năm, bằng hai lần công việc của một người làm thuê. Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong mọi công việc anh em làm.”

Con đầu lòng của gia súc

19“Anh em phải biệt riêng ra thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mọi con đầu lòng đực sinh ra trong bầy bò, bầy chiên hoặc bầy dê của anh em. Đừng bắt bò đực đầu lòng làm việc, cũng đừng hớt lông con chiên đực đầu lòng. 20Hằng năm anh em sẽ cùng gia đình ăn những con đầu lòng đó trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời tại địa điểm mà Ngài sẽ chọn. 21Nhưng nếu chúng có khuyết tật như què, đui hay bất cứ dị tật nào khác thì đừng dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, 22mà phải ăn thịt chúng trong thành mình. Cả người ô uế và người được tinh sạch đều được phép ăn, như ăn thịt hoàng dương hay thịt nai vậy. 23Nhưng anh em không được ăn huyết mà phải đổ huyết xuống đất như đổ nước.”