So Sánh Bản Dịch(Tối đa 6 bản dịch)


Kinh Thánh Tiếng Việt 1925(VI1934)

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010(RVV11)

Bản Dịch 2011(BD2011)

Bản Dịch Mới(NVB)

Bản Phổ Thông(BPT)

Bản Diễn Ý(BDY)

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

1Cuối hai mươi năm, sau khi Sa-lô-môn đã xây cất xong cái đền của Đức Giê-hô-va và cái cung mình,

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

1Vào cuối năm thứ hai mươi, khi vua Sa-lô-môn đã xây cất xong đền thờ Đức Giê-hô-va và cung điện của mình,

Bản Dịch 2011 (BD2011)

1Ðến cuối hai mươi năm, sau khi Sa-lô-môn đã xây xong Ðền Thờ CHÚA và cung điện cho ông,

Bản Dịch Mới (NVB)

1Vào cuối năm thứ hai mươi, vua Sa-lô-môn xây cất xong đền thờ CHÚA và cung điện của mình.

Bản Phổ Thông (BPT)

1Đến cuối năm thứ hai mươi, Sô-lô-môn đã xây xong đền thờ cho CHÚA và cung điện mình.

Bản Diễn Ý (BDY)

1Hai mươi năm sau khi lên ngôi, vua Sa-lô-môn hoàn tất chương trình kiến thiết Đền thờ và cung điện.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

2thì Sa-lô-môn cũng sửa xây lại các thành mà vua Hu-ram đã nhường cho người, và khiến cho dân Y-sơ-ra-ên ở đó.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

2thì vua xây lại các thành mà Hi-ram đã tặng cho vua, và cho dân Y-sơ-ra-ên định cư tại đó.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

2Sa-lô-môn tái thiết các thành Vua Hu-ram đã tặng ông, và đem dân I-sơ-ra-ên vào định cư trong các thành ấy.

Bản Dịch Mới (NVB)

2Bấy giờ vua Sa-lô-môn cũng tái thiết các thành mà vua Hu-ram nhường cho người và cho dân Y-sơ-ra-ên định cư tại đó.

Bản Phổ Thông (BPT)

2Sô-lô-môn cho xây sửa lại các thị trấn mà vua Hi-ram đã cho mình rồi đưa dân Ít-ra-en đến định cư trong các thị trấn ấy.

Bản Diễn Ý (BDY)

2Vua bắt đầu xây lại các thành phố mà Hi-ram, vua Ty-rơ đã tặng và cho định cư một số dân Y-sơ-ra-ên tại đó.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

3Sa-lô-môn đi đến đánh Ha-mát-Xô-ba và thắng được.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

3Sa-lô-môn tiến đánh Ha-mát Xô-ba và chiếm được thành ấy.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

3Sa-lô-môn tiến đánh Ha-mát Xô-ba và chiếm được miền ấy.

Bản Dịch Mới (NVB)

3Vua Sa-lô-môn tiến đánh Ha-mát Xô-ba và chiếm đoạt thành này.

Bản Phổ Thông (BPT)

3Rồi ông kéo đến chiếm Ha-mát Xô-ba.

Bản Diễn Ý (BDY)

3Sa-lô-môn cũng tiến công và chiếm đóng Ha-mát Sô-ba.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

4Người xây thành Tát-mốt trong đồng vắng, và xây các thành dùng làm kho tàng tại xứ Ha-mát.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

4Vua xây thành Tát-mốt trong hoang mạc và xây các thành dùng làm kho tàng tại xứ Ha-mát.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

4Ông cũng xây lại Thành Tác-mô trong đồng hoang và xây lại các thành trong vùng Ha-mát để làm các kho dự trữ lương thực.

Bản Dịch Mới (NVB)

4Vua xây thành Tát-mốt trong sa mạc và tất cả các thành dùng làm kho dự trữ tại Ha-mát.

Bản Phổ Thông (BPT)

4Sô-lô-môn cũng xây thị trấn Thát-mo trong sa mạc và xây tất cả các thị trấn trong Ha-mát cùng làm nơi chứa ngũ cốc và vật liệu.

Bản Diễn Ý (BDY)

4Vua xây cất thành phố Thạch-mơ trong sa mạc và nhiều thành phố quanh Ha-mát làm trung tâm tiếp tế.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

5Người cũng xây Bết-Hô-rôn trên và Bết-Hô-rôn dưới, là những thành bền vững, có vách tường, cửa và then khóa;

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

5Vua cũng xây Bết Hô-rôn Thượng và Bết Hô-rôn Hạ là những thành kiên cố, có tường thành và cửa đóng then cài.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

5Ông xây lại Thành Bết Hô-rôn Thượng và Thành Bết Hô-rôn Hạ và biến chúng thành những thành trì kiên cố với tường cao, cổng khóa, và rào cản.

Bản Dịch Mới (NVB)

5Người xây Bết Hô-rôn Thượng và Bết Hô-rôn Hạ thành những thành kiên cố với tường, cổng và then cài.

Bản Phổ Thông (BPT)

5Ông xây sửa lại các thị trấn Bết-Hô-rôn trên, và Bết-Hô-rôn dưới, xây tường, cổng, và các thanh cài cổng để phòng vệ các nơi đó.

Bản Diễn Ý (BDY)

5Vua tăng cường các thành phố Bết-hô-rôn trên và Bết-hô-rôn dưới, xây thành lũy, đặt cổng và khóa để làm trung tâm tiếp tế.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

6lại xây thành Ba-lát và các thành làm kho tàng của Sa-lô-môn, các thành để chứa xe, và các thành cho lính kỵ người ở; phàm điều gì Sa-lô-môn ước ao xây cất, hoặc tại Giê-ru-sa-lem, trên Li-ban, hay là trong khắp xứ phục dưới quyền người, thì đều xây cất cả.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

6Vua xây thành Ba-lát và tất cả các thành làm kho tàng của vua, các thành để chứa chiến xa, và các thành cho ngựa chiến. Sa-lô-môn hoàn thành tất cả những dự án xây cất tại Giê-ru-sa-lem, Li-ban và toàn lãnh thổ thuộc quyền vua.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

6Sa-lô-môn cũng xây lại Thành Ba-a-lát và tất cả các thành làm kho dự trữ lương thực của ông, các thành cho các đạo quân sử dụng các xe chiến mã, các thành cho các đạo kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-băng, và ở mọi miền trong vương quốc của ông.

Bản Dịch Mới (NVB)

6Vua Sa-lô-môn cũng xây thành Ba-lát và tất cả những thành dùng làm kho dự trữ, thành chứa xe ngựa, kỵ binh cùng tất cả những gì vua muốn xây cất tại Giê-ru-sa-lem, Li-ban và trên khắp lãnh thổ người cai trị.

Bản Phổ Thông (BPT)

6Ông cũng cho xây lại thị trấn Ba-a-lát. Ông cũng xây các thị trấn khác để làm kho chứa, và các thành khác chứa quân xa và ngựa. Những gì ông muốn thì ông xây ở Giê-ru-sa-lem, Li-băng, và bất cứ nơi nào ông trị vì.

Bản Diễn Ý (BDY)

6Vua cũng kiến thiết thành phố Ba-lát, các trung tâm tiếp tế và các thành chứa xe cộ, chiến xa, kỵ binh và hoàn thành các dự án kiến thiết tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Li-ban và khắp đất nước.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

7Hết thảy những người còn sống sót lại trong dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, không thuộc về Y-sơ-ra-ên,

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

7Tất cả những người còn sót lại trong các dân Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít không thuộc về Y-sơ-ra-ên,

Bản Dịch 2011 (BD2011)

7Tất cả những người còn lại của các dân Hít-ti, A-mô-ri, Pê-ri-xi, Hi-vi, và Giê-bu-si sống trong xứ, tức những người không phải dân I-sơ-ra-ên –

Bản Dịch Mới (NVB)

7Tất cả những người sống sót thuộc các sắc tộc Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, là những người không thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên;

Bản Phổ Thông (BPT)

7Có những dân khác trong xứ không phải dân Ít-ra-en: như dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-ri-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít.

Bản Diễn Ý (BDY)

7Vua Sa-lô-môn bắt các sắc dân Hê-tít, A-mo. Phê-rê, Hê-vít và Giê-bu

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

8tức là những con cháu chúng nó hãy còn lại trong xứ, mà dân Y-sơ-ra-ên không diệt hết, thì trong chúng nó Sa-lô-môn bắt kẻ làm xâu cho đến ngày nay.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

8tức là các con cháu của chúng còn lại trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên không diệt hết, thì Sa-lô-môn bắt chúng làm lao dịch cho đến ngày nay.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

8họ là con cháu của những người mà dân I-sơ-ra-ên đã không thể tận diệt và hiện còn sống trong xứ– Sa-lô-môn bắt những người ấy phải đóng thuế nặng dưới hình thức cưỡng bách lao động như đã thấy ngày nay.

Bản Dịch Mới (NVB)

8dòng dõi những người này còn lại trong lãnh thổ mà người Y-sơ-ra-ên chưa tiêu diệt hết được, thì vua Sa-lô-môn bắt chúng làm lao động cưỡng bách cho đến ngày nay.

Bản Phổ Thông (BPT)

8Họ là dòng dõi của những dân tộc mà người Ít-ra-en chưa tiêu diệt. Sô-lô-môn buộc họ làm tôi mọi, và ngày nay cũng vẫn như thế.

Bản Diễn Ý (BDY)

8tức là dòng dõi những kẻ còn sống sót sau cuộc chiếm đóng của dân Y-sơ-ra-ên làm sưu dịch (các đời sau cũng áp dụng chính sách này).

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

9Nhưng về dân Y-sơ-ra-ên, Sa-lô-môn không bắt ai làm xâu hết, vì họ làm quân lính, quan tướng, quan cai xe, và lính kỵ của người.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

9Nhưng trong dân Y-sơ-ra-ên, Sa-lô-môn không bắt ai làm lao dịch cả. Họ là những chiến sĩ, quan tướng, những người chỉ huy chiến xa và kỵ binh của vua.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

9Nhưng Sa-lô-môn không bắt người I-sơ-ra-ên nào làm nô lệ cho các công trình xây cất của ông, nhưng họ là chiến sĩ, tướng tá, và sĩ quan chỉ huy các đơn vị có xe chiến mã và các đơn vị kỵ binh của ông.

Bản Dịch Mới (NVB)

9Nhưng vua Sa-lô-môn không bắt ai trong vòng người Y-sơ-ra-ên làm nô lệ cho vua vì họ là những binh sĩ, tướng lãnh, đội trưởng, chỉ huy các xe chiến mã và kỵ binh của vua.

Bản Phổ Thông (BPT)

9Nhưng Sô-lô-môn không bắt dân Ít-ra-en làm tôi mọi. Ông cho họ làm lính, các sĩ quan chỉ huy, sĩ quan chỉ huy quân xa, và những người tài xế quân xa.

Bản Diễn Ý (BDY)

9Công dân Y-sơ-ra-ên không ai phải làm xâu, nhưng được nhập ngũ phục vụ trong quân đội với các cấp bậc tướng tá, chỉ huy chiến xa, kỵ binh và binh sĩ.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

10Còn về quan trưởng của Sa-lô-môn đặt lên để quản đốc dân sự làm công việc, số là hai trăm năm mươi người.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

10Số viên chức mà vua Sa-lô-môn đặt lên làm quản đốc nhân công là hai trăm năm mươi người.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

10Ðây là con số các quan chức cao cấp của Vua Sa-lô-môn: hai trăm năm mươi người. Họ là những người trực tiếp cai quản dân.

Bản Dịch Mới (NVB)

10Vua Sa-lô-môn cũng có hai trăm năm chục viên chức quản đốc những người làm việc.

Bản Phổ Thông (BPT)

10Đó là những sĩ quan cao cấp nhất của ông. Có hai trăm năm mươi người thuộc cấp đó để điều động dân chúng.

Bản Diễn Ý (BDY)

10Sa-lô-môn cũng bổ nhiệm 250 giám đốc các ngành hành chánh để điều khiển các sinh hoạt của nhân dân.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

11Sa-lô-môn sai rước công chúa Pha-ra-ôn ở thành Đa-vít lên cung mà người đã cất cho nàng; vì người nói rằng: Vợ ta chẳng nên ở trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, vì nơi nào hòm của Đức Giê-hô-va đến, thì đã nên thánh rồi.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

11Sa-lô-môn cho rước công chúa Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít lên cung điện mà vua đã xây cất cho bà, vì vua nói rằng: “Vợ ta sẽ không ở trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, vì Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nào thì nơi đó là thánh.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

11Sa-lô-môn đem con gái của Pha-ra-ôn ra khỏi Thành Ða-vít và đưa vào ở trong cung điện ông đã xây riêng cho nàng, vì ông nói, “Vợ tôi sẽ không ở trong cung điện của Ða-vít vua I-sơ-ra-ên, vì nơi nào Rương của CHÚA đã ngự vào, nơi đó đã trở thành thánh địa.”

Bản Dịch Mới (NVB)

11Vua Sa-lô-môn đưa công chúa của Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít lên cung điện mà người cất cho nàng vì vua nói rằng: Vợ ta sẽ không sống trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên vì nơi nào rương của CHÚA đến, đó là nơi thánh.

Bản Phổ Thông (BPT)

11Sô-lô-môn rước con gái của vua Ai-cập từ khu cũ của thành Giê-ru-sa-lem vào cung điện vua xây cho nàng. Sô-lô-môn nói, “Vợ ta không nên ở trong cung vua Đa-vít vì nơi nào Rương Giao Ước của CHÚA đã được đặt để đều là thánh.”

Bản Diễn Ý (BDY)

11Vua rước hoàng hậu (là công chúa Ai-cập) từ thành Đa-vít lên cung điện mới xây cất xong; vì vua nhận định: 'Hoàng hậu không nên ở trong cung Đa-vít là nơi đã được thánh hóa (vì Rương giao ước trước kia được rước vào cung Đa-vít một thời gian).'

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

12Bấy giờ, Sa-lô-môn dâng của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va tại trên bàn thờ của Giê-hô-va mà người đã xây trước hiên cửa;

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

12Bấy giờ, Sa-lô-môn dâng tế lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va trên bàn thờ của Đức Giê-hô-va mà vua đã xây trước hành lang đền thờ;

Bản Dịch 2011 (BD2011)

12Sau đó Sa-lô-môn dâng các của lễ thiêu lên CHÚA trên bàn thờ CHÚA mà ông đã xây trước tiền đình,

Bản Dịch Mới (NVB)

12Bấy giờ, trên bàn thờ CHÚA vua đã xây trước hiên cửa, vua dâng tế lễ thiêu cho CHÚA;

Bản Phổ Thông (BPT)

12Rồi Sô-lô-môn dâng của lễ thiêu cho CHÚA trên bàn thờ ông đã xây trước mặt vòm cửa đền thờ.

Bản Diễn Ý (BDY)

12Lúc ấy, Sa-lô-môn dâng các tế lễ thiêu cho Chúa trên bàn thờ vua đã lập trước hiên cửa Đền thờ.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

13lại tùy theo lệ luật của Môi-se, người dâng mỗi ngày của lễ phải dâng, cùng trong các ngày sa-bát, ngày mồng một, và hằng năm nhằm ba lễ trọng thể, tức lễ bánh không men, lễ các tuần lễ, và lễ lều tạm.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

13vua dâng đúng như luật của Môi-se quy định về việc dâng tế lễ trong các ngày sa-bát, ngày trăng mới, và ba ngày lễ lớn hằng năm là lễ Bánh Không Men, lễ Các Tuần và lễ Lều Tạm.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

13theo như luật lệ Mô-sê đã quy định phải dâng hiến hằng ngày, những ngày Sa-bát, những ngày trăng mới, và ba ngày đại lễ hằng năm: Lễ Bánh Không Men, Lễ Các Tuần, và Lễ Lều Tạm.

Bản Dịch Mới (NVB)

13vua dâng tế lễ theo như Môi-se đã qui định mỗi ngày, những ngày Sa-bát và trăng mới cũng như ba ngày lễ hằng năm: Lễ bánh không men, lễ các tuần và lễ lều tạm.

Bản Phổ Thông (BPT)

13Ông dâng sinh tế mỗi ngày theo như Mô-se truyền dặn. Các của lễ được dâng vào ngày Sa bát, ngày Trăng Mới, và ba ngày lễ hằng năm tức Lễ Bánh Không Men, Lễ Các Tuần, và Lễ Lều Tạm.

Bản Diễn Ý (BDY)

13Như luật pháp Mai-sen đã ấn định, vua dâng các tế lễ hằng ngày, mỗi ngày lễ cuối tuần, ngày trăng mới và ba ngày lễ lớn hằng năm là lễ Bánh không men, lễ các Tuần lễ và lễ Lều Tạm.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

14Tùy theo lệnh truyền của Đa-vít, cha mình, người phân định ban thứ của những thầy tế lễ trong phần việc họ, và lập người Lê-vi trong chức sự họ, đặng ngợi khen Chúa và hầu việc tại trước mặt những thầy tế lễ, cứ công việc ngày nào theo ngày nấy; tại mỗi cửa cũng đặt kẻ giữ cửa, cứ theo phiên mình, vì Đa-vít, người của Đức Chúa Trời, đã truyền lịnh như vậy.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

14Theo lệnh truyền của vua cha là Đa-vít, vua phân công cho các thầy tế lễ theo ban thứ; phân công người Lê-vi trong việc ca ngợi Chúa và phụ giúp các thầy tế lễ trong công việc hằng ngày. Vua cũng phân công người giữ cổng theo phiên thứ tại mỗi cổng đền thờ, vì đây là lệnh truyền của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

14Ðể duy trì mệnh lệnh về sự thờ phượng mà Ða-vít cha ông đã lập, ông bổ nhiệm các tư tế vào các ban ngành để thực hiện các nhiệm vụ của họ. Ông bổ nhiệm những người Lê-vi vào các chức vụ để lo việc ca hát và vào các ban ngành để phụ giúp các tư tế thi hành chức vụ hằng ngày. Ông cũng bổ nhiệm những người giữ cửa vào các toán, để thay phiên nhau canh gác tại các cửa, theo như Ða-vít người của Ðức Chúa Trời đã truyền.

Bản Dịch Mới (NVB)

14Theo sắc lệnh của vua cha Đa-vít, vua lập các ban tế lễ theo phận sự; các ban người Lê-vi hướng dẫn ca ngợi và phụ giúp các thầy tế lễ trong việc phụng vụ hằng ngày; các ban giữ cổng cho mỗi cổng vì đây là lệnh của vua Đa-vít, người của Đức Chúa Trời.

Bản Phổ Thông (BPT)

14Sô-lô-môn theo đúng những lời dặn dò của Đa-vít và chọn các nhóm thầy tế lễ để phục vụ và các người Lê-vi để hướng dẫn ca hát đồng thời giúp các thầy tế lễ trong công việc hằng ngày. Ông chọn các người giữ cửa theo nhóm để canh gác ở mỗi cổng theo như Đa-vít, người của Thượng Đế đã truyền dặn.

Bản Diễn Ý (BDY)

14Theo lệnh Đa-vít, người của Thượng Đế, các thầy tế lễ được phân công và chia thành từng ban. Người Lê-vi cũng được phân công ca ngợi Chúa và phục vụ trong Đền thờ giúp các thầy tế lễ trong các nhiệm vụ hằng ngày, cùng canh gác các cổng Đền thờ.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

15Phàm điều gì vua đã phán dạy những thầy lễ và người Lê-vi, hoặc về kho tàng hay là về việc khác, thì họ chẳng bỏ bê chút nào.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

15Bất cứ điều gì Đa-vít đã truyền dạy liên quan đến các thầy tế lễ, người Lê-vi, cũng như về kho tàng và các việc khác đều được thực hiện chính xác.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

15Không ai vi phạm bất cứ mạng lịnh nào của tiên vương liên quan đến chức vụ của các tư tế và chức vụ của những người Lê-vi, kể cả việc quản lý các kho báu của Ðền Thờ.

Bản Dịch Mới (NVB)

15Lệnh của vua cho thầy tế lễ, người Lê-vi về mọi vấn đề, kể cả vấn đề nhà kho đều được thi hành chu đáo.

Bản Phổ Thông (BPT)

15Họ vâng theo các mệnh lệnh của Sô-lô-môn truyền cho các thầy tế lễ và người Lê-vi cùng những mệnh lệnh liên quan đến kho ngân khố.

Bản Diễn Ý (BDY)

15Họ nhất nhất tuân hành lệnh vua trong các sinh hoạt Đền thờ, kho tàng và mọi việc khác.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

16Vả, các vật liệu mà Sa-lô-môn dùng về việc cất đền của Đức Giê-hô-va, đều đã sắm sửa từ ngày đặt nền cho đến khi công việc xong. Đền của Đức Giê-hô-va đã cất xong là như vậy.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

16Mọi công trình của Sa-lô-môn được hoàn tất, từ ngày đặt nền móng đền thờ Đức Giê-hô-va cho đến ngày hoàn thành. Như vậy, đền thờ Đức Giê-hô-va đã được xây cất xong.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

16Vậy tất cả những việc Sa-lô-môn dự tính làm, từ lúc khởi công xây móng Ðền Thờ CHÚA cho đến khi Ðền Thờ hoàn tất, đều được thực hiện. Thế là công trình xây cất Ðền Thờ CHÚA đã hoàn thành cách mỹ mãn.

Bản Dịch Mới (NVB)

16Mọi công việc của vua Sa-lô-môn đều được thực hiện, từ ngày đặt nền đền thờ CHÚA cho đến khi kết thúc; đền thờ CHÚA được hoàn thành.

Bản Phổ Thông (BPT)

16Tất cả các công tác của Sô-lô-môn đều hoàn tất y như lời ông đã nói từ ngày khởi công đặt nền cho đền thờ cho đến khi hoàn thành. Vậy đền thờ được xây cất xong.

Bản Diễn Ý (BDY)

16Mọi công tác của Sa-lô-môn, từ ngày khởi công cho đến ngày hoàn thành, đều được chuẩn bị chu đáo, nên Đền thờ Chúa được hoàn tất cách tuyệt hảo.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

17Khi ấy Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn-Ghê-be và Ê-lốt, tại trên mé biển, trong xứ Ê-đôm.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

17Lúc ấy, Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lốt trên bờ biển thuộc đất Ê-đôm.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

17Sau đó Sa-lô-môn đến kinh lý Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lát, trên bờ biển thuộc lãnh thổ của Ê-đôm.

Bản Dịch Mới (NVB)

17Bấy giờ vua Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lốt trên bờ biển trong xứ Ê-đôm.

Bản Phổ Thông (BPT)

17Rồi Sô-lô-môn đi đến các thị trấn Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lát gần Hồng hải trong xứ Ê-đôm.

Bản Diễn Ý (BDY)

17Sa-lô-môn cũng xuống Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lát, hai hải cảng trong đất Ê-đôm.

Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VI1934)

18Hu-ram bởi tay các tôi tớ mình, gửi đến cho người những tàu và các thủy thủ thạo nghề đi biển; chúng đi với các tôi tớ của Sa-lô-môn đến Ô-phia, lấy tại đó bốn trăm năm mươi ta-lâng vàng, và chở về cho vua Sa-lô-môn.

Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 (RVV11)

18Vua Hi-ram sai các đầy tớ đem đến cho vua Sa-lô-môn tàu bè và các thủy thủ thông thạo nghề đi biển. Họ cùng đi với các đầy tớ của Sa-lô-môn đến Ô-phia chở về khoảng mười lăm tấn vàng cho vua Sa-lô-môn.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

18Khi ấy Hu-ram sai các tôi tớ của ông, những người thông thạo việc đi biển, đem tàu thủy tới. Họ dẫn các tôi tớ của Sa-lô-môn đến xứ Ô-phia và lấy hơn mười lăm tấn vàng đem về cho Vua Sa-lô-môn.

Bản Dịch Mới (NVB)

18Vua Hu-ram sai viên chức mình đem tàu và thủy thủ thành thạo hàng hải đến cùng các viên chức của vua Sa-lô-môn để đi Ô-phia; từ đó họ đem về mười sáu tấn vàng cho vua Sa-lô-môn.

Bản Phổ Thông (BPT)

18Hi-ram phái các thuyền bè do người của mình là những thủy thủ chuyên nghiệp điều khiển đến Sô-lô-môn. Những người của Hi-ram đi cùng với người của Sô-lô-môn đến Ô-phia mang về khoảng mười sáu tấn vàng cho vua Sô-lô-môn.

Bản Diễn Ý (BDY)

18Hi-ram (vua Ty-rơ) sai các chuyên viên hàng hải và các thủy thủ đến hợp tác với các hải đội của Sa-lô-môn đi Ô-phia lấy vàng. Họ lấy được 450 ta-lâng vàng chở về cho Sa-lô-môn.