11

Sa-lô-môn thờ hình tượng, bị Đức Chúa Trời nổi giận. – Sa-lô-môn qua đời

1 Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn lại còn thương mến nhiều người nữ của dân ngoại: tức là người nữ Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn, và Hê-tít. 2 Chúng nó thuộc về các dân tộc mà Đức Giê-hô-va có phán với dân Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi và chúng nó chớ đi lại giao thông với nhau; vì chúng nó hẳn sẽ quyến dụ lòng các ngươi hướng theo các thần chúng nó. Sa-lô-môn tríu mến những người nữ ấy. 3 Người có bảy trăm hoàng hậu, và ba trăm cung nữ; chúng nó bèn làm cho người trở lòng. 4 Trong buổi già yếu, các hoàng hậu của Sa-lô-môn dụ lòng người đi theo các thần khác: Đối cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lòng người chẳng trọn lành như thể lòng của Đa-vít, là cha người. 5 Vì Sa-lô-môn cúng thờ Át-tạt-tê, nữ thần của dân Si-đôn, và thần Minh-côm, là thần đáng gớm ghiếc của dân Am-môn. 6 Như vậy, Sa-lô-môn làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, chẳng vâng theo Đức Giê-hô-va cách trọn lành như Đa-vít, cha người, đã làm. 7 Bấy giờ, Sa-lô-môn lại xây cất tại trên núi đối ngang Giê-ru-sa-lem, một nơi cao cho Kê-móc, vật đáng gớm ghiếc của dân Mô-áp, và cho Mo-lóc, vật đáng gớm ghiếc của dân Am-môn. 8 Vua cũng làm như vậy cho hết thảy các hoàng hậu ngoại của mình, xông hương và tế lễ cho thần của chúng nó.
9 Đức Giê-hô-va nổi giận cùng Sa-lô-môn, bởi vì lòng người trở bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã hai lần hiện đến cùng người, 10 phán bảo người rằng chớ theo các thần khác; nhưng người không vâng theo lịnh của Đức Giê-hô-va. 11 Đức Giê-hô-va phán với Sa-lô-môn rằng: Bởi vì ngươi đã làm điều nầy, không giữ giao ước và luật pháp ta truyền cho ngươi, nên ta chắc sẽ đoạt lấy nước khỏi ngươi, cho kẻ tôi tớ ngươi. 12 Song vì cớ Đa-vít, cha ngươi, ta sẽ chẳng làm điều đó trong đời ngươi. Ta sẽ đoạt lấy nước khỏi tay con trai ngươi. 13 Lại ta chẳng đoạt lấy cả nước khỏi nó; song vì cớ Đa-vít, đầy tớ ta, và vì cớ Giê-ru-sa-lem mà ta đã chọn, ta sẽ để lại một chi phái cho con trai ngươi.
14 Vậy, Đức Giê-hô-va khiến dấy lên một kẻ thù nghịch cùng Sa-lô-môn, là Ha-đát, người Ê-đôm, vốn dòng dõi vua Ê-đôm. 15 Vả, trong lúc Đa-vít đánh dẹp Ê-đôm, thì Giô-áp là tổng binh, đi lên chôn các kẻ thác, và giết hết thảy người nam trong Ê-đôm. 16 Giô-áp và cả Y-sơ-ra-ên ở lại đó sáu tháng, cho đến khi người đã giết hết thảy người nam trong Ê-đôm. 17 Lúc bấy giờ, Ha-đát chạy trốn cùng mấy người Ê-đôm, là tôi tớ của cha người, đặng đến ở Ê-díp-tô; Ha-đát hãy còn thơ ấu. 18 Chúng đi từ Ma-đi-an đến Pha-ran; đoạn bắt mấy người Pha-ran theo mình mà đi đến Ê-díp-tô, ra mắt Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô. Vua cấp cho Ha-đát nhà ở, lương thực và đất ruộng. 19 Ha-đát được ơn nhiều trước mặt Pha-ra-ôn; vua bèn gả em vợ mình cho người, tức là em của hoàng hậu Tác-bê-ne. 20 Em của Tác-bê-ne sanh cho Ha-đát một con trai tên là Ghê-nu-bát; Tác-bê-ne dứt sữa nó tại trong đền Pha-ra-ôn. Như vậy, Ghê-nu-bát ở tại trong đền Pha-ra-ôn, giữa các con trai của vua. 21 Khi Ha-đát ở Ê-díp-tô hay rằng Đa-vít đã an giấc cùng các tổ tiên người, và Giô-áp, quan tổng binh, đã thác, thì người tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Xin hãy để cho tôi đi trở về trong xứ tôi. 22 Pha-ra-ôn đáp với người rằng: Ngươi ở nơi ta có thiếu gì sao, nên ao ước trở về trong xứ mình như vậy? Người thưa rằng: Chẳng thiếu chi. Dầu vậy, xin cho tôi đi.
23 Đức Chúa Trời lại khiến dấy lên một kẻ thù nghịch khác, là Rê-xôn, con trai Ê-li-gia-đa, đã chạy trốn khỏi chúa mình là Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba. 24 Khi Đa-vít giết quân vua Xô-ba, thì người ấy nhóm người ta chung quanh mình, và làm đầu bọn đó, đi đến thành Đa-mách, bèn ở tại đó, và quản trị thành ấy. 25 Rê-xôn làm kẻ cừu địch cùng Y-sơ-ra-ên trọn đời Sa-lô-môn, ngoài ra sự hại mà Ha-đát đã làm; người cai trị nước Sy-ri, và ghen ghét Y-sơ-ra-ên.
26 Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, người Ép-ra-im, ở đất Xê-rê-đa, là tôi tớ của Sa-lô-môn, cũng dấy nghịch với người. Mẹ người góa bụa, tên là Xê-ru-ha. 27 Nầy là duyên cớ mà người phản nghịch với vua: Sa-lô-môn xây cất Mi-lô, lấp vá lại nơi hư lủng của thành Đa-vít, là cha người. 28 Vả, Giê-rô-bô-am là một người mạnh dạn và tài năng; Sa-lô-môn thấy người tuổi trẻ có tài nghề, bèn đặt người làm đầu xâu cho cả nhà Giô-sép. 29 Xảy trong lúc đó, Giê-rô-bô-am ở Giê-ru-sa-lem đi ra, gặp tiên tri A-hi-gia ở Si-lô tại giữa đường, mặc cái áo tơi mới. Chỉ có hai người ở ngoài đồng mà thôi. 30 A-hi-gia bèn nắm áo mới người mặc trong mình mà xé ra làm mười hai miếng. 31 Đoạn, người nói với Giê-rô-bô-am rằng: Hãy lấy mười miếng về phần ngươi, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vậy: Kìa, ta sẽ đoạt lấy nước khỏi tay Sa-lô-môn và trao cho ngươi mười chi phái của nước ấy. 32 Nhưng vì cớ Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, và vì cớ Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn giữa các chi phái Y-sơ-ra-ên, nên sẽ có một chi phái cứ ở trung tín cùng người.
33 Ấy, bởi vì chúng nó đã từ bỏ ta, đi thờ lạy Át-tạt-tê, nữ thần của dân Si-đôn, Kê-mốt, thần xứ Mô-áp, và Minh-côm, thần của dân Am-môn. Chúng nó không đi theo các đường lối ta, đặng làm điều ngay thẳng tại trước mặt ta, và cũng chẳng giữ luật lệ và điều răn ta, y như Đa-vít, cha của Sa-lô-môn, đã làm. 34 Nhưng ta sẽ chẳng cất lấy cả nước khỏi tay Sa-lô-môn; song vì Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, ta đã chọn, ta sẽ lập người làm vua trọn đời người sống, bởi vì Đa-vít đã giữ các điều răn và luật lệ ta. 35 Nhưng ta sẽ đoạt lấy nước khỏi tay con trai người, mà trao cho ngươi mười chi phái. 36 Ta sẽ để lại một chi phái cho con trai người, để cho tại Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn đặng đặt danh ta ở đó, Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, hằng có một ngọn đèn trước mặt ta luôn luôn. 37 Vậy, ta sẽ chọn ngươi và lập làm vua Y-sơ-ra-ên; ngươi sẽ cai trị theo ý muốn lòng ngươi. 38 Và, nếu ngươi vâng theo lịnh ta, đi trong các đường lối ta, làm điều thiện trước mặt ta, giữ gìn luật lệ và điều răn ta, y như Đa-vít, tôi tớ ta, đã làm, thì ta sẽ ở cùng ngươi, 39 lập cho ngươi một nhà vững chắc, y như ta đã lập cho Đa-vít, và ta sẽ ban Y-sơ-ra-ên cho ngươi. Như vậy, ta sẽ làm sỉ nhục dòng dõi Đa-vít, nhưng chẳng phải đời đời.
40 Sa-lô-môn tìm thế giết Giê-rô-bô-am; nhưng Giê-rô-bô-am chạy trốn qua Ê-díp-tô; đến cùng Si-sắc, vua Ê-díp-tô; rồi người ở tại Ê-díp-tô cho đến chừng Sa-lô-môn băng hà.
41 Còn các điều khác về chuyện Sa-lô-môn, mọi việc người, sự khôn ngoan của người, thảy đều đã chép trong sách hành trạng của Sa-lô-môn. 42 Sa-lô-môn ở Giê-ru-sa-lem cai trị trên cả Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm. 43 Đoạn, Sa-lô-môn an giấc cùng các tổ phụ người, và được chôn trong thành Đa-vít, cha người. Rô-bô-am, con trai người, cai trị thế cho người.

11

Solomôn Đuaĭ Tui Yang Ƀing Bơnai Ñu

1Pơtao Solomôn khăp kơ lu ƀing đah kơmơi tuai. Rơngiao kơ bơnai ñu, jing ană đah kơmơi Pharaoh, ñu pơdŏ hăng ƀing đah kơmơi mơnuih Môab, mơnuih Ammôn, mơnuih Edôm, mơnuih Sidôn laih anŭn mơnuih Hit. 2Ƀing đah kơmơi anŭn jing ƀing lŏm kơ kơnung djuai Yahweh hơmâo pơtă laih kơ ƀing Israel tui anai, “Ƀing gih anăm pơdŏ hăng ƀing đah kơmơi gơñu ôh, sĭt yuakơ ƀing gơñu či pơwir hĭ pran jua gih nao kơkuh pơpŭ kơ ƀing yang rơba̱ng gơñu yơh.” Wơ̆t tơdah tui anŭn, pơtao Solomôn ăt khăp hăng ƀu-eng ôh kơ ƀing gơñu. 3Ñu hơmâo tơjuh-rơtuh čô bơnai-hơbia laih anŭn klâo-rơtuh čô bơnai hle̱, laih anŭn ƀing bơnai ñu anŭn yơh dui ba ngă kơ ñu jrôk hĭ jơlan mơ̆ng Yahweh. 4Tơdang Solomôn ƀrư̆ tha laih, ƀing bơnai ñu pơwir hĭ pran jua ñu pơ ƀing yang rơba̱ng laih anŭn pran jua ñu ƀu dŏ tŏng ten hlo̱m ƀo̱m hăng Yahweh Ơi Adai ñu ôh. Sĭt pran jua ñu ƀu hrup hăng pran jua ama ñu Dawid hơmâo hlâo adih ôh. 5Ñu đuaĭ tui yang HʼAstôret, jing yang đah kơmơi, mơ̆ng ƀing mơnuih Sidôn laih anŭn yang Môlek jing yang hơƀak drak mơ̆ng ƀing mơnuih Ammôn. 6Tui anŭn yơh, Solomôn ngă laih tơlơi sat ƀai ƀơi anăp Yahweh. Ñu ƀu đuaĭ tui Yahweh hlo̱m ƀo̱m kar hăng ama ñu Dawid hơmâo kơkuh pơpŭ hlâo adih ôh.
7Ƀơi sa boh anih bŏl čư̆ gah ngŏ̱ kơ plei Yerusalaim, Solomôn pơdơ̆ng đĭ sa anih kơkuh pơpŭ kơ yang Kemôs, jing yang hơƀak drak mơ̆ng ƀing mơnuih Môab, laih anŭn sa anih kơkuh pơpŭ dơ̆ng kơ yang Môlek, jing yang hơƀak drak mơ̆ng mơnuih Ammôn. 8Ñu ăt ngă hrup hăng anŭn mơ̆n brơi kơ abih bang ƀing bơnai tuai ñu, jing ƀing čuh gơnam ƀâo mơngưi laih anŭn pơyơr khul gơnam ngă yang kơ ƀing yang rơba̱ng gơñu.
9Yahweh hil kơ Solomôn yuakơ pran jua ñu hơmâo wir đuaĭ ataih hĭ laih mơ̆ng Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel anŭn, jing Pô hơmâo pơƀuh rai laih hăng Solomôn dua wơ̆t hlâo adih. 10Wơ̆t tơdah Yahweh hơmâo khă laih Solomôn ƀu dưi đuaĭ tui ƀing yang rơba̱ng ôh, samơ̆ Solomôn ƀu djă̱ pioh tơlơi Yahweh pơđar anŭn ôh. 11Tui anŭn yơh, Yahweh pơhiăp kơ ñu tui anai, “Yuakơ ih pơmĭn laih ngă tui hăng tơlơi ih pô kiăng laih anŭn ih ƀu djă̱ pioh ôh tơlơi pơgop Kâo laih anŭn tơlơi pơtă pơtăn Kâo, jing tơlơi Kâo pơđar laih kơ ih, tui anŭn Kâo či mă pơđuaĭ hĭ tơlơi dưi git gai ƀing Israel mơ̆ng ih laih anŭn jao hĭ kơ sa čô amăng ƀing khua moa ih yơh. 12Samơ̆ yuakơ tơhơnal tơlơi Dawid ama ih anŭn, Kâo ƀu či ngă ôh tơlơi anai amăng rơnŭk ih dŏ hơdip. Kâo či mă pơđuaĭ hĭ lŏn čar mơ̆ng tơngan tơlơi dưi ană đah rơkơi ih tơdang ñu jing hĭ pơtao yơh. 13Kâo ƀu či mă pơđuaĭ hĭ abih tơlơi git gai wai lăng mơ̆ng tơngan ñu ôh, samơ̆ Kâo či brơi kơ ñu tơlơi git gai sa kơnung djuai yuakơ tơhơnal tơlơi ding kơna Kâo Dawid laih anŭn yuakơ tơhơnal tơlơi plei Yerusalaim, jing anih Kâo hơmâo ruah mă laih jing hĭ anih Kâo pô.”

Yahweh Pơtơgŭ Ƀing Rŏh Ayăt Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Pơtao Solomôn

14Giŏng anŭn, Yahweh pơtơgŭ đĭ sa čô rŏh ayăt pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Solomôn, anŭn jing Hadad mơnuih Edôm mơ̆ng sang anŏ pơtao Edôm. 15Hlâo adih, hlak pơtao Dawid pơblah hăng ƀing Edôm, Yôab jing khua git gai ƀing ling tơhan, đĭ nao dơ̱r ƀing ling tơhan Israel djai pơ anŭn. Ƀơi mông anŭn ñu ăt pơrai hĭ abih bang ƀing đah rơkơi amăng lŏn čar Edôm mơ̆n. 16Yôab hăng ƀing ling tơhan Israel dŏ pơ anih lŏn anŭn năm blan tơl ƀing gơñu hơmâo pơrai hĭ abih bang ƀing đah rơkơi amăng lŏn čar Edôm. 17Samơ̆ hlak anŭn Hadad kơnơ̆ng jing sa čô čơđai đôč laih anŭn ñu đuaĭ kơdŏp anăp nao pơ lŏn čar Êjip hrŏm hăng đơđa ƀing khua moa Edôm jing ƀing hơmâo mă bruă laih kơ ama ñu. 18Ƀing gơñu dŏ jưh ƀơi anih Midyan giŏng anŭn ƀing gơñu tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn laih anŭn nao pơ Tơdron Ha̱r Paran. Giŏng anŭn, hơmâo đơđa mơnuih mơ̆ng Tơdron Ha̱r Paran nao hrŏm hăng ƀing gơñu pơ lŏn čar Êjip truh pơ Pharaoh, jing pơtao Êjip. Pơtao anŭn brơi kơ Hadad sa boh sang hăng lŏn đang laih anŭn pha brơi nanao gơnam ƀơ̆ng yơh.
19Pharaoh mơak biă mă hăng Hadad tơl ñu jao brơi adơi bơnai ñu, jing adơi pơtao hơbia HʼTahpenes yơh, kiăng kơ pơdŏ. 20Adơi HʼTapenes anŭn tơkeng sa čô ană đah rơkơi kơ Hadad. Hadad pơanăn gơ̆ Genubat laih anŭn HʼTapenes ba mŭt ană anŭn amăng sang pơtao hơdip hrŏm hăng ƀing ană Pharaoh pô yơh.
21Tơdang Hadad hlak dŏ amăng lŏn čar Êjip, ñu hơmư̆ Dawid tơĭ pran laih, laih dơ̆ng Yôab jing khua git gai ƀing ling tơhan Dawid ăt djai mơ̆n. Tui anŭn, Hadad laĭ hăng Pharaoh tui anai, “Brơi bĕ kơ kâo tơbiă nao kiăng kơ dưi wơ̆t glaĭ pơ lŏn čar kâo pô.”
22Pharaoh tơña kơ ñu tui anai, “Hơget tơlơi ih hơmâo kơƀah hĭ laih pơ anai tơl ih kiăng wơ̆t glaĭ pơ lŏn čar ih pô lĕ?”
 Hadad laĭ glaĭ, “Kâo ƀu kơƀah hơget gĕt ôh, samơ̆ kâo khŏm wơ̆t glaĭ yơh!”
23Giŏng anŭn, Ơi Adai pơtơgŭ đĭ rŏh ayăt pơkŏn dơ̆ng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Solomôn. Anŭn jing Rezôn ană đah rơkơi Eliada, jing pô đuaĭ kơdŏp hĭ mơ̆ng khua ñu Hadadezer, jing pơtao lŏn čar Zôbah. 24Rezôn pơƀut glaĭ ƀing mơnuih jum dar ñu laih anŭn jing pô djă̱ akŏ kơ sa tơpul tơgŭ pơkơdơ̆ng tơdơi kơ Dawid pơrai hĭ ƀing ling tơhan Zôbah. Ƀing tơgŭ pơkơdơ̆ng anŭn đuaĭ nao dŏ hơdip pơ plei pơnăng Damaskus laih anŭn git gai anih plei anŭn. 25Thim mŭt tơlơi rŭng răng Hadad ba rai dơ̆ng, Rezôn jing rŏh ayăt hăng ƀing Israel amăng abih rơnŭk hơdip Solomôn yơh. Tui anŭn, Rezôn git gai wai lăng lŏn čar ƀing Aram laih anŭn hil nač kơ ƀing Israel.

Yarobam Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Pơtao Solomôn

26Laih anŭn dơ̆ng, Yarobam jing ană đah rơkơi Nebat tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao. Ñu jing sa čô amăng ƀing khua moa Solomôn, jing mơnuih Ephraim mơ̆ng plei Zerêdah, laih anŭn amĭ ñu HʼZeruah jing sa čô đah kơmơi kơmai.
27Anai yơh jing tơhơnal tơlơi hiư̆m pă ñu tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao: Tơdang Solomôn hlak pơdơ̆ng đĭ anih Millô laih anŭn hlak pơsir glaĭ anih răm hông hang amăng pơnăng Plei Dawid jing plei ama ñu anŭn, 28ñu thâo krăn Yarobam jing mơnuih khĭn kơtang laih anŭn thâo hluh. Tơdang Solomôn ƀuh pô tơdăm anŭn mă bruă thâo, ñu pơjing gơ̆ jing pô djă̱ akŏ kơ abih bang ƀing mă bruă mơ̆ng kơnung djuai Yôsêp, jing kơnung djuai Ephraim laih anŭn Manasseh yơh.
29Hơmâo sa hrơi, tơdang Yarobam tơbiă nao mơ̆ng plei Yerusalaim, pô pơala Ahiyah mơ̆ng anih Silôh bưp ñu ƀơi jơlan. Yarobam buh sa blah ao jao phrâo laih anŭn kơnơ̆ng hơjăn dua gơñu đôč amăng anih tač anŭn. 30Blĭp blăp Ahiyah mă hĭ ao phrâo gơ̆ hlak buh anŭn laih anŭn hek hĭ jing pluh-dua črăn. 31Giŏng anŭn, ñu laĭ kơ Yarobam tui anai, “Mă tŭ bĕ pluh črăn kơ ih pô, yuakơ anai yơh jing tơlơi Yahweh Ơi Adai ƀing Israel laĭ, ‘Anai nê, Kâo či hek mă pơđuaĭ hĭ tơlơi git gai wai lăng mơ̆ng tơngan tơlơi dưi Solomôn laih anŭn jao kơ ih pluh kơnung djuai ƀing Israel. 32Solomôn či hơmâo sa kơnung djuai yuakơ tơhơnal tơlơi ding kơna Kâo Dawid laih anŭn yuakơ tơhơnal tơlơi plei prŏng Yerusalaim jing anih Kâo hơmâo ruah mă laih mơ̆ng abih bang ƀing kơnung djuai Israel. 33Kâo či mă hĭ pluh kơnung djuai anŭn mơ̆ng Solomôn yuakơ ñu hơmâo đuaĭ ataih hĭ laih mơ̆ng Kâo laih anŭn kơkuh pơpŭ kơ HʼAstôret jing yang đah kơmơi mơ̆ng ƀing Sidôn, kơ Kemôs jing yang ƀing Môab, kơ Môlek jing yang ƀing Ammôn. Ñu ƀu rơbat tui ôh amăng khul jơlan Kâo, kŏn ngă tơlơi djơ̆ tơpă lơi ƀơi anăp Kâo, laih anŭn kŏn djă̱ pioh lơi khul tơlơi pơđar, tơlơi juăt Kâo, kar hăng ama ñu Dawid hơmâo ngă laih.
34“ ‘Kơđai glaĭ, Kâo ƀu či mă pơđuaĭ hĭ ôh abih bang tơlơi git gai wai lăng mơ̆ng tơngan tơlơi dưi Solomôn. Samơ̆ Kâo hơmâo brơi laih ñu jing pô git gai amăng abih tơlơi hơdip ñu yuakơ tơhơnal tơlơi ding kơna Kâo Dawid, jing pô Kâo ruah mă laih, jing pô răk pioh laih khul tơlơi pơđar, tơlơi pơtă pơtăn Kâo. 35Kâo či mă pơđuaĭ hĭ tơlơi git gai wai lăng mơ̆ng tơngan tơlơi dưi ană đah rơkơi ñu anŭn laih anŭn brơi kơ ih pluh kơnung djuai yơh. 36Kâo či brơi sa kơnung djuai kơ ană đah rơkơi ñu, kiăng kơ ding kơna Kâo Dawid anŭn dưi hơmâo sa čô tŏ tui git gai nanao amăng plei prŏng Yerusalaim, jing plei Kâo ruah kiăng kơ pioh pơpŭ pơyom anăn Kâo pơ anŭn. Pô anŭn či jing kar hăng sa boh apui kơđen nanao ƀơi anăp Kâo yơh. 37Samơ̆ bơ kơ ih, Kâo či pơjing ih jing pơtao git gai abih bang ƀing kơnung djuai Israel dŏ glaĭ tui hăng pran jua ih kiăng yơh. 38Tơdah ih ngă tui hăng hơget tơlơi Kâo pơđar kơ ih kiăng kơ rơbat amăng khul jơlan Kâo laih anŭn ngă khul tơlơi djơ̆ tơpă ƀơi anăp Kâo, djă̱ pioh khul tơlơi pơtă pơtăn, tơlơi pơđar Kâo, kar hăng ding kơna Kâo Dawid hơmâo ngă laih, Kâo či dŏ hăng ih yơh. Kâo či jao brơi Israel kơ ih laih anŭn ăt či pơkơjăp kơ ih sa rơnŭk git gai kar hăng Kâo pơkơjăp laih kơ Dawid mơ̆n. 39Kâo či pơmlâo hĭ ƀing ană tơčô Dawid yuakơ tơlơi anai, samơ̆ ƀu pơtơnap nanao ôh.’ ”
40Solomôn gir kiăng pơdjai Yarobam, samơ̆ Yarobam đuaĭ kơdŏp nao pơ lŏn čar Êjip, jing truh pơ pơtao Sisak, laih anŭn hlŏng dŏ pơ anŭn tơl Solomôn rơngiă hĭ yơh.

Tơlơi Pơtao Solomôn Tơĭ Pran

41Bơ kơ tơlơi pơkŏn dơ̆ng kơ bruă pơtao Solomôn git gai wai lăng, jing abih bang tơlơi ñu ngă laih anŭn tơlơi rơgơi ñu pơrơđah laih, abih bang le̱ng kơ čih pioh amăng hră bruă mơnuă pơtao Solomôn. 42Tơdơi Solomôn wai lăng abih bang ƀing Israel amăng plei Yerusalaim truh kơ pă̱pluh thŭn, 43ñu tơĭ pran laih anŭn arăng dơ̱r ñu amăng Plei Dawid jing plei ama ñu yơh. Giŏng anŭn, ană đah rơkơi ñu Rehabam jing pơtao tŏ tui ñu.