22

A-háp và Giô-sa-phát tranh chiến với dân Sy-ri

1 Trong ba năm Sy-ri và Y-sơ-ra-ên không có giặc. 2 Năm thứ ba, Giô-sa-phát, vua Giu-đa, đi đến cùng vua Y-sơ-ra-ên. 3 Vua Y-sơ-ra-ên nói với tôi tớ mình rằng: Các ngươi há chẳng biết rằng Ra-mốt trong Ga-la-át thuộc về chúng ta sao? Chúng ta lại làm thinh chẳng rứt nó khỏi tay vua Sy-ri sao! 4 Đoạn, người nói với Giô-sa-phát rằng: Vua muốn đến cùng ta đặng đánh lấy Ra-mốt trong Ga-la-át chăng? Giô-sa-phát đáp với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi như ông; dân sự tôi như dân sự ông; và ngựa tôi như ngựa của ông.
5 Song Giô-sa-phát nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi xin ông phải cầu vấn Đức Giê-hô-va trước đã. 6 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên nhóm các tiên tri lại, số bốn trăm người, mà hỏi rằng: Ta có nên đi đánh Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Chúng đáp rằng: Hãy đi lên; Chúa sẽ phó nó vào tay vua. 7 Nhưng Giô-sa-phát tiếp rằng: Ở đây còn có đấng tiên tri nào khác của Đức Giê-hô-va để chúng ta cầu vấn người ấy chăng? 8 Vua Y-sơ-ra-ên đáp với Giô-sa-phát rằng: Còn có một người, tên là Mi-chê, con trai của Giêm-la; nhờ người ấy ta có thể cầu vấn Đức Giê-hô-va; nhưng tôi ghét người, vì người chẳng nói tiên tri lành về tôi, bèn là dữ đó thôi. Giô-sa-phát nói rằng: Xin vua chớ nói như vậy. 9 Vua Y-sơ-ra-ên bèn đòi một hoạn quan mà bảo rằng: Hãy lập tức mời Mi-chê, con trai Giêm-la, đến.
10 Vả, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, mỗi người đều mặc đồ triều phục, đương ngồi trên một cái ngai tại trong sân đạp lúa, nơi cửa thành Sa-ma-ri; và hết thảy tiên tri nói tiên tri trước mặt hai vua. 11 Sê-đê-kia, con trai Kê-na-na, làm lấy những sừng bằng sắt, và nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Với các sừng nầy, ngươi sẽ báng dân Sy-ri cho đến khi diệt hết chúng nó. 12 Và hết thảy tiên tri đều nói một cách, mà rằng: Hãy đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át; vua sẽ được thắng, vì Đức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua.
13 Vả, sứ giả đã đi mời Mi-chê, nói cùng người rằng: Những tiên tri đều đồng lòng báo cáo sự lành cho vua; tôi xin ông cũng hãy lấy lời như lời của họ mà báo cáo điều lành. 14 Nhưng Mi-chê đáp rằng: Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống mà thề, ta sẽ báo cáo điều gì Đức Giê-hô-va phán dặn ta. 15 Khi người đã đến cùng vua, vua bèn hỏi rằng: Hỡi Mi-chê, chúng ta có nên đi hãm đánh Ra-mốt trong Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Mi-chê đáp: Hãy đi, vua sẽ được thắng; Đức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua. 16 Nhưng vua nói với người rằng: Biết bao lần ta đã lấy lời thề buộc ngươi chỉ khá nói chân thật với ta nhân danh Đức Giê-hô-va.
17 Bấy giờ Mi-chê đáp rằng: Tôi thấy cả Y-sơ-ra-ên bị tản lạc trên các núi, như bầy chiên không có người chăn; và Đức Giê-hô-va phán rằng: Những kẻ ấy không có chủ; ai nấy khá trở về nhà mình bình yên.
18 Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi há chẳng có nói với vua rằng người chẳng nói tiên tri lành về việc tôi, bèn là nói tiên tri dữ sao? 19 Mi-chê lại tiếp: Vậy, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: Tôi thấy Đức Giê-hô-va ngự trên ngôi Ngài và cả cơ binh trên trời đứng chầu Ngài bên hữu và bên tả. 20 Đức Giê-hô-va phán hỏi: Ai sẽ đi dụ A-háp, để người đi lên Ra-Mốt trong Ga-la-át, và ngã chết tại đó? Người trả lời cách nầy, kẻ trả lời cách khác. 21 Bấy giờ, có một thần ra đứng trước mặt Đức Giê-hô-va mà thưa rằng: Tôi sẽ đi dụ người. Đức Giê-hô-va phán hỏi thần rằng: Dụ cách nào? 22 Thần thưa lại rằng: Tôi sẽ đi và làm một thần nói dối trong miệng những tiên tri của người. Đức Giê-hô-va phán rằng: Phải, ngươi sẽ dụ người được. Hãy đi và làm như ngươi đã nói. 23 Vậy bây giờ, kìa, Đức Giê-hô-va đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên tri vua, và Đức Giê-hô-va đã phán sự dữ cho vua.
24 Bấy giờ, Sê-đê-kia, con trai của Kê-na-na, đến gần Mi-chê, vả vào má người, mà rằng: Thần của Đức Giê-hô-va có do đường nào lìa khỏi ta đặng đến nói với ngươi? 25 Mi-chê đáp: Trong ngày ngươi chạy từ phòng nầy đến phòng kia đặng ẩn lánh, thì sẽ biết điều đó.
26 Vua Y-sơ-ra-ên truyền lịnh rằng: Hãy bắt Mi-chê dẫn đến cho A-môn, quan cai thành, và cho Giô-ách, con trai của vua, 27 rồi hãy nói rằng: Vua bảo như vầy: Hãy bỏ tù người nầy, lấy bánh và nước khổ nạn mà nuôi nó cho đến khi ta trở về bình an. 28 Mi-chê tiếp rằng: Nếu vua trở về bình an thì Đức Giê-hô-va không cậy tôi phán. Người lại nói: Hỡi chúng dân! Các ngươi khá nghe ta.
29 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át với Giô-sa-phát, vua Giu-đa. 30 Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi sẽ giả dạng ăn mặc, rồi ra trận; còn vua hãy mặc áo của vua. Như vậy, vua Y-sơ-ra-ên ăn mặc giả dạng mà ra trận. 31 Vả, vua Sy-ri đã truyền lịnh cho ba mươi hai quan coi xe mình rằng: Các ngươi chớ áp đánh ai bất kỳ lớn hay nhỏ, nhưng chỉ một mình vua Y-sơ-ra-ên mà thôi. 32 Vậy, khi các quan coi xe thấy Giô-sa-phát thì nói rằng: Ấy quả thật là vua Y-sơ-ra-ên. Chúng bèn đến gần người đặng áp đánh; nhưng Giô-sa-phát kêu la lên. 33 Khi các quan coi xe thấy chẳng phải vua Y-sơ-ra-ên, thì thối lại, không đuổi theo nữa. 34 Bấy giờ, có một người tình cờ giương cung bắn vua Y-sơ-ra-ên, trúng nhằm người nơi giáp đâu lại. Vua nói cùng kẻ đánh xe mình rằng: Hãy quay cương lại, dẫn ta ra ngoài hàng quân, vì ta bị thương nặng.
35 Nhưng trong ngày đó thế trận thêm dữ dội; có người nâng đỡ vua đứng trong xe mình đối địch dân Sy-ri. Đến chiều tối vua chết; huyết của vít thương người chảy xuống trong lòng xe. 36 Lối chiều, trong hàng quân có rao truyền rằng: Ai nấy hãy trở về thành mình, xứ mình.
37 Vua băng hà là như vậy; người ta đem thây vua về Sa-ma-ri, và chôn tại đó. 38 Người ta rửa xe người tại trong ao Sa-ma-ri, là nơi những bợm buôn hương tắm, và có những chó liếm máu người, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
39 Các chuyện khác của A-háp, những công việc người làm, cái đền bằng ngà người cất, và các thành người xây, đều chép trong sử ký về các vua Y-sơ-ra-ên. 40 Vậy, A-háp an giấc cùng tổ phụ mình, và A-cha-xia, con trai người, kế vị người.

Giô-sa-phát làm vua Giu-đa

41 Năm thứ tư đời A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, thì Giô-sa-phát, con trai A-sa, lên ngôi làm vua Giu-đa. 42 Giô-sa-phát lên ngôi, tuổi được ba mươi lăm; người cai trị hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Tên của mẹ người là A-xu-ba, con gái của Si-chi. 43 Người đi theo đường của A-sa, cha người, chẳng xây bỏ đi, song làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. 44 Nhưng người không trừ bỏ các nơi cao; dân sự còn tế lễ và đốt hương tại trên các nơi cao. 45 Giô-sa-phát và vua Y-sơ-ra-ên ở hòa hảo với nhau.
46 Các truyện khác của Giô-sa-phát, dõng lực người, những giặc giã người, đều đã chép trong sử ký về các vua Giu-đa. 47 Người trừ diệt những bợm vĩ gian còn lại trong xứ từ đời A-sa, cha mình. 48 Bấy giờ, dân Ê-đôm không có vua, có một quan trấn thủ cai trị. 49 Giô-sa-phát đóng một đoàn tàu Ta-rê-si đặng đi Ô-phia chở vàng, nhưng không đi đến đó được, bởi vì tàu vỡ ra tại Ê-xi-ôn-Ghê-be. 50 A-cha-xia, con trai của A-háp, nói với Giô-sa-phát rằng: Hãy cho phép các đầy tớ ta đi tàu với các đầy tớ ông. Nhưng Giô-sa-phát không chịu. 51 Giô-sa-phát an giấc với tổ phụ mình, được chôn với họ trong thành Đa-vít, cha người, và Giô-ram, con trai người, kế vị người.

A-cha-xia làm vua Y-sơ-ra-ên

52 Năm thứ mười bảy đời Giô-sa-phát, vua Giu-đa, thì A-cha-xia, con trai A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri, và cai trị hai năm. 53 Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, đi theo con đường của cha và mẹ mình, cùng theo đường của Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, là người xui cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. 54 Người hầu việc Ba-anh và thờ lạy nó, chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cứ theo mọi sự cha người đã làm.

22

Y-Mika Hưn Êlâo Klei Y-Ahap leh anăn Y-Jôsaphat Luč

(II KYD 18:1-34)

1Êjai tlâo thŭn phung Siri leh anăn phung Israel amâo mâo klei bi blah ôh. 2Ƀiădah hlăm thŭn tal tlâo Y-Jôsaphat mtao Yuđa trŭn nao kơ mtao Israel. 3Mtao Israel lač kơ phung dĭng buăl ñu, “Diih thâo mơ̆ kơ ƀuôn Ramôt-Galaat jing dŏ drei, leh anăn drei dôk ñăt leh anăn amâo lŏ mă gơ̆ mơ̆ng kngan mtao Siri ôh?” 4Ñu lač kơ Y-Jôsaphat, “Ih čiăng nao mơ̆ mbĭt hŏng kâo bi blah ti ƀuôn Ramôt-Galaat?” Y-Jôsaphat lač kơ mtao Israel, “Kâo jing msĕ si ih, phung ƀuôn sang kâo jing msĕ si phung ƀuôn sang ih, aseh kâo jing msĕ si aseh ih.”
5Y-Jôsaphat lač kơ mtao Israel, “Êlâo hĭn, êmuh bĕ kơ klei Yêhôwa blŭ.” 6Leh anăn mtao Israel bi kƀĭn phung khua pô hưn êlâo mbĭt, mâo hlăm brô pă êtuh čô, leh anăn lač kơ digơ̆, “Kâo srăng nao bi blah hŏng ƀuôn Ramôt-Galaat amâodah kâo srăng lui?” Leh anăn digơ̆ lač, “Đĭ nao bĕ, kyuadah Khua Yang srăng jao ƀuôn anăn hlăm kngan mtao.” 7Ƀiădah Y-Jôsaphat lač, “Amâo lŏ mâo hĕ tinei sa čô khua pô hưn êlâo mkăn kơ Yêhôwa, kơ ñu drei dưi êmuh?” 8Mtao Israel lač kơ Y-Jôsaphat, “Ăt dôk sa čô êkei, hŏng pô anăn drei dưi êmuh kơ Yêhôwa, Y-Mika anak êkei Y-Imla; ƀiădah kâo bi êmut kơ ñu kyuadah ñu amâo tuôm hưn êlâo klei jăk djŏ kơ kâo ôh, ƀiădah knŏng klei jhat.” Y-Jôsaphat lač, “Đăm brei mtao blŭ snăn ôh.” 9Mtao Israel iêu sa čô khua kahan leh anăn lač, “Atăt ba tinei djăl Y-Mika anak êkei Y-Imla.” 10Mtao Israel leh anăn Y-Jôsaphat mtao Yuđa dôk gŭ ti jhưng mtao diñu, hơô ao mtao diñu ti anôk prah mdiê ti anôk mŭt ƀăng jang ƀuôn Samari. Leh anăn jih jang phung khua pô hưn êlâo dôk hưn êlâo ti anăp diñu. 11Y-Sêdêkia anak êkei Y-Kênana ngă leh kơ ñu pô ki msei leh anăn lač, “Snei Yêhôwa lač, ‘Hŏng ki anei ih srăng klư̆ phung Siri tơl diñu rai.’ ” 12Leh anăn jih jang phung khua pô hưn êlâo hưn êlâo msĕ snăn, leh anăn lač, “Đĭ nao bĕ kơ ƀuôn Ramôt-Galaat leh anăn dưi; Yêhôwa srăng jao ƀuôn anăn hlăm kngan mtao.”
13Pô arăng tiŏ nao iêu Y-Mika lač kơ ñu, “Nĕ anei, klei phung khua pô hưn êlâo blŭ sa ai jing klei jăk kơ mtao. Brei klei ih blŭ srăng jing msĕ si klei blŭ sa čô hlăm phung diñu, leh anăn blŭ bĕ bi jăk.” 14Ƀiădah Y-Mika lač, “Tui si Yêhôwa dôk hdĭp, ya klei Yêhôwa lač kơ kâo, klei anăn kâo srăng blŭ.”
15Tơdah ñu truh leh kơ mtao, mtao lač kơ ñu, “Ơ Y-Mika, hmei srăng nao bi blah hŏng ƀuôn Ramôt-Galaat mơ̆, amâodah hmei srăng lui?” Gơ̆ lŏ wĭt lač kơ ñu, “Đĭ nao bĕ leh anăn dưi. Yêhôwa srăng jao ƀuôn hlăm kngan mtao.” 16Ƀiădah mtao lač kơ gơ̆, “Dŭm bliư̆ kâo srăng mtă kơ ih čiăng kơ ih blŭ knŏng klei sĭt nik kơ kâo hlăm anăn Yêhôwa?” 17 Leh anăn Y-Mika wĭt lač, “Kâo ƀuh jih jang phung Israel bra đuĕ leh ti dlông čư̆ msĕ si phung biăp amâo mâo mgăt ôh; leh anăn Yêhôwa lač, ‘Phung anei amâo mâo khua ôh; brei grăp čô wĭt hŏng klei êđăp ênang kơ sang ñu pô.’ ” 18Mtao Israel lač kơ Y-Jôsaphat, “Amâo djŏ hĕ kâo hưn kơ ih ñu amâo srăng hưn êlâo klei jăk kơ kâo ôh, ƀiădah knŏng klei jhat?” 19 Leh anăn Y-Mika lač, “Kyuanăn hmư̆ bĕ klei Yêhôwa blŭ: Kâo ƀuh Yêhôwa dôk gŭ ti jhưng mtao ñu, leh anăn jih jang phung kahan hlăm adiê dôk dơ̆ng ti djiêu ñu, tĭng hnuă leh anăn tĭng điâo ñu. 20Leh anăn Yêhôwa lač, ‘Hlei pô srăng mplư Y-Ahap čiăng kơ ñu đĭ nao leh anăn êbuh djiê ti ƀuôn Ramôt-Galaat?’ Sa čô lač sa klei, leh anăn pô mkăn lač klei mkăn. 21Leh anăn mâo sa čô yang truh leh anăn dôk dơ̆ng ti anăp Yêhôwa, lač, ‘Kâo srăng mplư ñu.’ 22Yêhôwa lač kơ ñu, ‘Si ih srăng ngă?’ Ñu lač, ‘Kâo srăng kbiă nao leh anăn jing yang luar hlăm ƀăng êgei jih jang phung khua pô hưn êlâo ñu.’ Yêhôwa lač kơ ñu, ‘Ih yơh srăng mplư ñu, leh anăn ih srăng dưi. Kbiă nao leh anăn ngă bĕ snăn.’ 23Snăn nĕ ară anei, Yêhôwa dưm leh sa čô yang luar hlăm ƀăng êgei jih jang phung khua pô hưn êlâo ih anei. Yêhôwa blŭ leh klei jhat djŏ kơ ih.”
24Hlăk anăn Y-Sêdêkia anak êkei Y-Kênana hriê leh anăn čăm hĕ Y-Mika ti miêng leh anăn lač, “Si êlan Mngăt Myang Yêhôwa kbiă mơ̆ng kâo čiăng blŭ kơ ih?” 25Y-Mika lač, “Nĕ anei ih srăng ƀuh ti hruê ih mŭt adŭ čiăng đuĕ dăp.” 26Mtao Israel lač, “Mă hĕ Y-Mika leh anăn atăt ba ñu wĭt kơ Y-Amôn khua kiă kriê ƀuôn leh anăn kơ Y-Jôas anak êkei mtao, 27leh anăn lač, ‘Snei mtao lač, “Krư̆ hĕ êkei anei hlăm war mnă, leh anăn čiêm ñu ƀiă hŏng kpŭng leh anăn êa knap mñai tơl kâo lŏ wĭt hŏng klei êđăp ênang.” ’ ” 28Leh anăn Y-Mika lač, “Tơdah ih lŏ wĭt hŏng klei êđăp ênang, Yêhôwa amâo tuôm blŭ hŏng kâo ôh.” Leh anăn ñu lač, “Hmư̆ bĕ jih jang diih phung ƀuôn sang!”
29Snăn mtao Israel leh anăn Y-Jôsaphat mtao Yuđa đĭ nao kơ ƀuôn Ramôt-Galaat. 30Mtao Israel lač kơ Y-Jôsaphat, “Kâo srăng mgưt jing pô mkăn leh anăn nao kơ klei bi blah. Ƀiădah ih hơô bĕ ao jhung ih.” Leh anăn mtao Israel mgưt jing pô mkăn leh anăn nao kơ klei bi blah. 31Mtao Siri mtă leh kơ phung tlâo pluh dua čô khua kahan êdeh aseh ñu, “Đăm diih bi blah hŏng phung điêt ôh, kăn hŏng phung prŏng rei, ƀiădah knŏng hŏng mtao Israel.” 32Tơdah phung khua kahan êdeh aseh ƀuh Y-Jôsaphat, diñu lač, “Sĭt nik gơ̆ yơh jing mtao Israel.” Snăn diñu wir čiăng bi blah hŏng gơ̆, leh anăn Y-Jôsaphat ur kraih. 33Tơdah phung khua kahan êdeh aseh ƀuh gơ̆ amâo jing mtao Israel, diñu wir wĭt hĕ, amâo lŏ tiŏ gơ̆ ôh. 34Ƀiădah sa čô êkei ƀêč hna ñu leh anăn hna anăn lar hĕ djŏ ti mtao Israel, ƀrăm mŭt ti plah wah anôk kkaih ao msei hŏng kđuh guôm đah da. Kyuanăn mtao lač kơ pô gai êdeh aseh ñu, “Weh bĕ leh anăn bi kbiă kâo mơ̆ng anôk bi blah, kyuadah kâo êka leh.” 35Klei bi blah jing ktang hĭn êjai hruê anăn. Arăng đru grang mtao hlăm êdeh aseh ƀô̆ phă hŏng phung Siri tơl tlam ñu djiê. Leh anăn êrah anôk êka đoh ti tria êdeh aseh. 36Giăm yang hruê lĕ mâo sa asăp ur truh kơ phung kahan, “Brei grăp čô wĭt kơ ƀuôn ñu pô leh anăn grăp čô kơ čar ñu pô!”
37Snăn mtao djiê leh anăn arăng ba ñu kơ ƀuôn Samari, leh anăn arăng dơr mtao hlăm ƀuôn Samari. 38Arăng rao êdeh aseh ti êa ênao Samari, leh anăn asâo hlia êrah Y-Ahap (anôk phung mniê knhông mnei hlăm anăn), tui si klei Yêhôwa blŭ leh. 39Bruă mkăn Y-Ahap ngă, jih klei ñu ngă leh, sang mla ñu mdơ̆ng leh, leh anăn jih jang boh ƀuôn ñu mdơ̆ng leh, amâo djŏ hĕ arăng čih leh hlăm Hdruôm Hră Klei Yăl Dliê kơ Phung Mtao Israel? 40Snăn Y-Ahap djiê nao dôk mbĭt hŏng phung aê ñu; leh anăn Y-Ahasia anak êkei ñu kiă kriê čuê ñu.

Klei Y-Jôsaphat Kiă Kriê

(II KYD 20:31-37)

41Y-Jôsaphat anak êkei Y-Asa dơ̆ng kiă kriê čar Yuđa hlăm thŭn tal pă Y-Ahap mtao Israel. 42Y-Jôsaphat mâo tlâo pluh êma thŭn tơdah ñu dơ̆ng kiă kriê, leh anăn ñu kiă kriê dua pluh êma thŭn hlăm ƀuôn Yêrusalem. Anăn amĭ ñu H'Asuba anak mniê Y-Silhi. 43Ñu êbat hlăm êlan Y-Asa ama ñu. Ñu amâo weh mơ̆ng êlan anăn ôh êjai ngă ya jing kpă ti anăp ală Yêhôwa. Ƀiădah arăng amâo mă hĕ ôh anôk dlông, leh anăn phung ƀuôn sang ăt myơr mnơ̆ng ngă yang leh anăn čuh mnơ̆ng ƀâo mngưi ti anôk dlông. 44Y-Jôsaphat msĕ mơh ngă klei êđăp ênang hŏng mtao Israel.
45Bruă mkăn Y-Jôsaphat ngă, klei ktang ñu bi êdah leh, leh anăn klei ñu bi blah, amâo djŏ hĕ arăng čih leh hlăm Hdruôm Hră Klei Yăl Dliê kơ Phung Mtao Yuđa? 46Leh anăn ñu bi luč hĕ mơ̆ng čar phung êkei kkuh mpŭ hŏng klei knhông ăt dôk mơ̆ng ênuk ama ñu Y-Asa.
47Amâo mâo mtao ôh hlăm čar Êđôm; sa čô pô bi ala kiă kriê. 48Y-Jôsaphat ngă kŭmpăn mơ̆ng Tarsis čiăng nao kơ čar Ôphir mă ba mah; ƀiădah diñu amâo jing nao ôh, kyuadah kŭmpăn mčah hĕ ti ƀuôn Êsiôn-Gêber. 49Leh anăn Y-Ahasia anak êkei Y-Ahap lač kơ Y-Jôsaphat, “Brei phung dĭng buăl kâo nao mbĭt hŏng phung dĭng buăl ih hlăm kŭmpăn,” ƀiădah Y-Jôsaphat amâo tŭ ôh. 50Y-Jôsaphat djiê nao dôk mbĭt hŏng phung aê ñu, leh anăn arăng dơr ñu mbĭt hŏng phung aê ñu hlăm ƀuôn Y-Đawit, aê ñu. Leh anăn Y-Jôram anak êkei ñu kiă kriê čuê ñu.

Klei Y-Ahasia Kiă Kriê Phung Israel

51Y-Ahasia anak êkei Y-Ahap dơ̆ng kiă kriê phung Israel hlăm ƀuôn Samari hlăm thŭn tal pluh kjuh Y-Jôsaphat mtao Yuđa. Leh anăn ñu kiă kriê phung Israel dua thŭn. 52Ñu ngă ya klei jing jhat ti anăp ală Yêhôwa, leh anăn êbat hlăm êlan ama ñu, leh anăn hlăm êlan amĭ ñu, leh anăn hlăm êlan Y-Jêrôbôam anak êkei Y-Nêbat, pô bi msoh phung Israel. 53Ñu mă bruă kơ yang Baal leh anăn kkuh mpŭ kơ yang anăn, leh anăn mčhur Yêhôwa Aê Diê Israel ăl hlăm jih jang êlan ama ñu ngă leh.