Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn
1 Bấy giờ, Sa-lô-môn vời đến mình, ở tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, hết thảy các quan trưởng của chi phái, và những trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành của Đa-vít, tức là Si-ôn.⚓2 Trong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn.⚓3 Khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, thì những thầy tế lễ lấy hòm của Đức Giê-hô-va, 4 dời đi luôn với Đền tạm và các khí dụng thánh ở trong Đền tạm. Những thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng các đồ đó lên. 5 Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã hiệp với người, và đứng trước hòm, giết bò và chiên làm của lễ rất nhiều, không thế đếm được. 6 Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7 Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.⚓ 10 Xảy khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thánh, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va,⚓11 đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va. 12 Bấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt.⚓13 Hỡi Đức Chúa Trời! Tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài, tức một nơi Ngài ở đời đời. 14 Đoạn, vua xây mặt lại, và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 15 Người nói rằng: Đáng khen ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ miệng Ngài có phán hứa với Đa-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời ấy; Ngài phán rằng: 16 Từ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta.⚓17 Vả, Đa-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.⚓18 Nhưng Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải; 19 song ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta.⚓20 Vậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21 Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước của Đức Giê-hô-va, tức là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô. 22 Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng: 23 Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp nầy, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và lòng nhân từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa. 24 Đối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay. 25 Vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Ngày nay xin làm trọn lời Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu.⚓26 Hỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi. 27 Nhưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất nầy chăng? Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất!⚓28 Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi! xin hãy đoái đến lời cầu nguyện và sự nài xin của kẻ tôi tớ Chúa, đặng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà kẻ tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa ngày nay. 29 Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là chỗ mà Chúa đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó, --- đặng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa hướng nơi nầy mà cầu.⚓30 Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ hướng về nơi nầy mà khẩn cầu, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa, tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho. 31 Khi ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt ai đó phải thề, nếu người đến thề trước bàn thờ của Chúa, tại trong đền nầy, 32 thì xin Chúa ở trên trời hãy nghe, đối đãi và xét đoán tôi tớ Chúa, mà lên án cho kẻ dữ, khiến đường lối nó đổ lại trên đầu nó, và xưng công bình cho người công bình, và thưởng người tùy theo sự công bình của người. 33 Khi dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì cớ phạm tội với Chúa, bị kẻ thù nghịch đánh được; nếu chúng nó trở lại với Chúa, nhận biết danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Chúa trong đền nầy, 34 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ. 35 Nếu các từng trời bị đóng chặt, không có mưa, bởi vì chúng nó đã phạm tội với Chúa, nếu chúng nó hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, xây bỏ tội lỗi mình, sau khi Chúa đã đoán phạt họ, 36 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho các tôi tớ Chúa, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin hãy chỉ cho họ con đường thiện mà họ phải đi, và giáng mưa trên đất của Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp. 37 Khi trong xứ xảy có đói kém, ôn dịch, hạn hán, ten sét, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù nghịch vây các thành của địa phận họ, hay là có tai vạ chi, tật bịnh gì; 38 nếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền nầy, và cầu nguyện, khẩn xin vô luận điều gì, 39 thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe, và tha thứ cho, đối đãi, báo ứng mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết lòng của con cái loài người), 40 để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời họ sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi. 41 Vả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh Ngài từ xứ xa đến 42 (vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà nầy, 43 xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người khách lạ sẽ cầu xin Chúa; để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên đền nầy mà tôi đã xây cất. 44 Khi dân của Chúa đi chiến trận cùng quân thù nghịch mình, theo con đường Chúa đã sai đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va xây mặt hướng về thành Chúa đã chọn, và về đền tôi đã cất cho danh Ngài, 45 thì xin Chúa ở trên trời, hãy dủ nghe các lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực quyền lợi cho họ. 46 Khi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù nghịch; khi họ bị bắt làm phu tù đến xứ của kẻ thù nghịch, hoặc xa hoặc gần, --- 47 ví bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn năn, và nài xin Chúa mà rằng: “Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác, và cư xử cách dữ tợn;” --- 48 nhược bằng tại trong xứ mà thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, --- 49 thì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, và binh vực quyền lợi cho họ; 50 tha cho dân Chúa tội lỗi và các sự trái mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu tù có lòng thương xót họ, 51 vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân sự Chúa, cơ nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt. 52 Nguyện Chúa đoái xem kẻ tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, mỗi lần họ kêu cầu cùng Chúa. 53 Hỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân cách họ khỏi các dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi tớ Chúa, khi Chúa đem tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô. 54 Khi Sa-lô-môn đã cầu với Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện nài xin nầy xong, bèn đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ lên trời. 55 Người đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng: 56 Đáng khen ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm.⚓57 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng tổ phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi; 58 nguyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi đường lối Ngài, giữ những điều răn, luật pháp, và mạng lịnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng tôi. 59 Ước gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta đã nài xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Đức Giê-hô-va binh vực quyền lợi của tôi tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên; 60 hầu cho muôn dân của thế gian biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, chớ chẳng có ai khác. 61 Vậy, các ngươi khá lấy lòng trọn lành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, để đi theo luật lệ Ngài và giữ gìn điều răn của Ngài, y như các ngươi đã làm ngày nay. 62 Vua và cả Y-sơ-ra-ên đều dâng các của lễ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. 63 Sa-lô-môn dâng của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va, hai muôn hai ngàn con bò đực và mười hai muôn con chiên. Vua và cả dân Y-sơ-ra-ên đều dự lễ khánh thành đền của Đức Giê-hô-va là như vậy. 64 Trong ngày đó, vua biệt riêng ra nơi chính giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, vì tại đó người dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân; bởi vì bàn thờ bằng đồng để trước đền của Đức Giê-hô-va là nhỏ quá, đựng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân không đặng. 65 Trong lúc đó, Sa-lô-môn và cả dân Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất lớn, ở từ miền Ha-mát cho đến khe Ê-díp-tô, hiệp tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, mà giữ lễ trong bảy ngày, lại bảy ngày khác nữa, cọng mười bốn ngày. 66 Ngày thứ tám⚓, vua cho dân sự về; dân chúc phước cho vua, đi trở về trại mình, lấy làm mừng rỡ vui lòng về mọi sự tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự của Ngài.
8
Y-Salômôm Leo Nglăp Hip Tâm Ngih Brah
1Nôk nây Y-Salômôn kuăl rgum phung bu bŭnh bu ranh Israel, jêh ri lĕ rngôch phung kôranh ndŭl mpôl kôranh ma phung noi deh ngih Israel văch tât panăp Y-Salômôn tâm ƀon Yêrusalem, gay tung hip nau tâm rnglăp Yêhôva tă bơh ƀon Y-David, jêng ƀon Siôn gay nglăp tâm ngih brah. 2Tâm khay Êthanim, jêng khay pơh, lĕ rphung ƀon lan Israel rgum băl văch jŭm Hađăch Salômôn gay văch râng năng nhêt ƀŭn 3Tơlah lĕ rngôch buranh Israel lĕ tât jêh, pôri phung kôranh ƀư brah tung leo hip. 4Pônây phung kôranh ƀư brah jêh ri phung Lêvi tung leo hip Yêhôva, ngih bok tâm rƀŭn, jêh ri djôt leo lĕ rngôch khăl ngan kloh ngăn gŭ tâm ngih bok. 5Hađăch Salômôn jêh ri lĕ rngôch phung Israel tâm rƀŭn panăp păng, dâk ndrel ma păng panăp hip. Khân păng nhhơr ƀư brah âk ngăn biăp jêh ri ndrôk kŏ tât mâu hôm dơi kơp. 6Jêh nây phung kôranh ƀư brah tung hip nau tâm rnglăp Yêhôva leo ma ntŭk păng tâm jrô kloh tâm trôm ngih tâm Jrô Kloh Ueh Lơn tâm dâng ntĭng năr phung Chêrubim. 7Yorlah phung chêrubim lĭ năr khân păng ta kalơ hip, pônây phung chêrubim jêng ndơ nkŭm ta kalơ hip jêh ri mâng tung păng. 8Mâng tung nây jong ngăn tât bu dơi saơ chiông păng ntơm bơh jrô kloh panăp ntŭk kloh ueh ngăn tâm trôm; ƀiălah bu mâu dơi saơ ôh tă padih aơ. Khân păng gŭ ta nây n'ho tât ma nar aơ. 9Tâm hip mâu geh du ndô ndơ ôh kanŏng bar plơp rlat lŭ Y-Môis hŏ ăn tâm nây dôl hôm gŭ ta yôk Hôrep, jêng ntŭk Yêhôva hŏ ƀư nau tâm rnglăp đah phung Israel, dôl khân păng mhe du luh tă bơh n'gor bri Êjipt. 10Dôl phung kôranh ƀư brah luh tă bơh jrô kloh, geh thŭl tŭk nkâm bêng ngih Yêhôva, 11kŏ tât phung kôranh ƀư brah mâu dơi dâk ôh gay pah kan nhhơr yor thŭl tŭk nây nkâm jêh ri yor nau chrêk ma lơp Yêhôva lĕ bêng ngih Yêhôva.
Nau Nhhơr Ngih Brah
12Nôk nây Y-Salômôn ngơi: "Yêhôva lĕ dơm jêh măt nar tâm trôk, ƀiălah Yêhôva hŏ lah jêh Păng gŭ tâm ndâr nau ngo vêt-vê. 13Gâp hŏ ndâk jêh ma may du mlâm ngih bu yơk, du ntŭk prăp ma may gŭ n'ho ro." 14Jêh ta nây hađăch rle muh măt păng jêh ri mŏt ton ma lĕ rngôch phung Israel gŭ tâm rƀŭn, dôl lĕ rngôch phung Israel tâm rƀŭn dâk nsrâng. 15Jêh ri păng lah: "Mŏt ma Yêhôva, jêng Brah Ndu Israel, jêng Nơm ƀư ăn n'hêl nanê̆ lĕ rngôch nau Păng hŏ ton jêh ma Y-David, mbơ̆ gâp. Păng lah pô aơ: 16'Ntơm bơh nar gâp ngluh phung ƀon lan gâp Israel du luh tă bơh n'gor bri Êjip, gâp mâu mâp săch ôh du rplay ƀon êng tâm lĕ rngôch ndŭl mpôl Israel gay ndâk du mlâm ngih gay ăn Amoh gâp mra gŭ ta nây, ƀiălah gâp hŏ săch Y-David gay chiă uănh phung ƀon lan gâp Israel.' 17Y-David, mbơ̆ gâp, geh jêh tâm nuih n'hâm ŭch ndâk du mlâm ngih ma Amoh Yêhôva, Brah Ndu Israel. 18Ƀiălah Yêhôva lah jêh ma Y-David, mbơ̆ gâp pô aơ: 'Yorlah tâm nuih n'hâm may lĕ geh jêh nau ŭch ndâk du mlâm ngih ăn Amoh gâp, nau may ŭch ƀư nây ueh jêh tâm nuih n'hâm may. 19Ƀiă lah may mâu mra ndâk ôh ngih nây ăn ma gâp, ƀiălah kon buklâu may, yor tă bơh may deh păng, mra ndâk ngih nây ma Amoh gâp! 20Abaơ ri Yêhôva hŏ ƀư jêng ngăn jêh nau Păng hŏ ton, yorlah gâp hŏ dâk ntrok ntŭk Y-David, mbơ̆ gâp; gâp gŭ ta sưng hađăch Israel, tĭng nâm Yêhôva hŏ ton, jêh ri gâp hŏ ndâk jêh ngih ma Amoh Yêhôva, jêng Brah Ndu Phung Israel. 21Ta aơ gâp hŏ ƀư du ntŭk prăp ma hip, tâm hip nây geh nau tâm rnglăp Yêhôva ƀư đah phung chô che he, dôl păng njŭn leo ngluh khân păng bơh n'gor bri Êjipt." 22Nôk nây Y-Salômôn dâk panăp nơng Yêhôva tra năp lĕ rngôch phung Israel gŭ tâm rƀŭn. Yơr bar đah ti rlet kalơ trôk, 23jêh ri lah: "Hơi Yêhôva, Brah Ndu phung Israel! Mâu geh ôh Brah Ndu êng nâm bu may tâm trôk prêh kalơ mâu lah ta neh tâm dâng aơ. May djôt prăp nau tâm rnglăp jêh ri tâm mpơl nau rŏng ngăn ngên ma phung oh mon may, jêng phung chuat hăn ma lĕ nuih n'hâm khân păng tanăp măt may. 24May hŏ djôt prăp jêh nau may lah ma oh mon may Y-David, mbơ̆ gâp. Nanê̆ ngăn may ngơi ma trôm mbung may hŏ ton yor ri nar aơ ma ti may hŏ ƀư jêng ngăn jêh. 25Pô ri aƀaơ, Hơi Yêhôva, Brah Ndu phung Israel, djôt prăp hom nau may hŏ ton đah oh mon may Y-David, mbơ̆ gâp, nau may ton ma păng, lah: "Ta năp măt gâp, may mâu mra ach ôh du huê bunuyh thoi may gŭ ta sưng hađăch phung Israel, tơlah kon sau may blau njrăng djôt prăp ăn di trong khân păng, chuat hăn tra năp măt gâp nâm bu may hŏ chuat hăn jêh panăp gâp! 26Yor ri aƀaơ, Hơi Brah Ndu phung Israel, ăn nau may ton aơ ƀư n'hêl nanê̆, nau may hŏ ngơi ma oh mon may Y-David, mbơ̆ gâp. 27"Ƀiălah Brah Ndu geh gŭ ngăn lĕ ta neh ntu? Nđâp ma trôk, tâm trôk ta kalơ prêh lơn ê hŏ dơi đŏng djôt prăp may; rlau lơn ma nây ngih gâp ƀư aơ kŏ mâu dơi djôt prăp ôh may! 28Pô nây Hơi Yêhôva jêng Brah Ndu gâp, dăn rkêng iăt ma nau oh mon may mbơh sơm jêh nau oh mon may nter nar aơ jêh ri mbơh sơm tra năp may. 29Dăn măt may lin măng nâm nar mêt uănh ngih aơ, jêng ntŭk may hŏ lah: 'Amoh gâp gŭ ta nây;' gay ma may dơi tăng nau oh mon may mbơh sơm mpeh tă ntŭk aơ. 30Dăn may rkêng tôr ma nau oh mon may mbơh sơm jêh ri phung ƀon lan may Israel vơl tơlah khân păng mbơh sơm mpeh tă ntŭk aơ. Tă ntŭk tâm trôk, ntŭk may gŭ; lah may lĕ tăng jêh ri sâm yô̆ an. 31"Tơlah geh mbu moh ƀư tih đah nơm pĭt meng păng, jêh ri bu ăn păng sơm ton; tơlah nơm nây văch tât jêh ri sơm ton panăp nơng may tâm ngih aơ, 32pôri tă ntŭk tâm trôk dăn may rkêng iăt, sâm ƀư jêh ri phat dôih an phung oh mon may; may tâm rmal nơm ƀư tih jêh ri ntô̆p nau tih păng ta kalơ bôk păng nơm, jêh ri dăn may kơp sŏng ma nơm ueh sŏng jêh nây mplơ̆ an ma păng tĭng nâm nau sŏng păng. 33"Tơlah phung ƀon lan may Israel geh ƀư tih tâm rdâng đah may, jêh nây phung rlăng lơh rai, ƀiă lah tơlah khân păng plơ̆ sĭt ma may, jêh ri mbơh nau khân păng chroh ma amoh may, mbơh sơm jêh ri vơl ma may tâm ngih aơ, 34pô nây ăn may iăt bơh trôk yô̆ an ma nau tih phung ƀon lan may Israel, jêh ri leo khân păng sĭt tay rlet ma n'gor may hŏ ăn jêh ma chô che khân păng. 35"Tơ lah trôk phang, prăng jêh ri mâu hôm geh ôh dak mih tô̆p ta neh yorlah khân păng ƀư tih jêh đah may, ƀiălah jêh nây khân păng mbơh sơm rle ma ntŭk aơ, jêh ri mbơh nau khân păng chroh ma amoh may, chalơi nau tih khân păng, yorlah may hŏ ƀư nkrit jêh, 36pôri tă tâm trôk, dăn may iăt khân păng, jêh ri yô̆ an ma nau tih phung oh mon may, phung ƀon lan Israel. Dăn ma may sâm nti khân păng trong ueh gay ma khân păng mra hăn; jêh ri ăn dak mih tô̆p tâm neh may, neh may hŏ ăn jêh ma phung ƀon lan may jêng chăm drăp. 37Tơlah tâm n'gor bri geh nau sa sât ji ngot, tơlah khân păng tưp nau ji chrôt, prăng phang, hon sêt-o, krah mâu lah ndrŭng; tơlah phung rlăng geh nchueng khân păng tâm moh nâm ƀon khân păng gŭ, tâm lĕ moh nau khân păng geh nau ji tưp chrôt srê nkhĭt, ăp ntil nau ji kuet ji rôi; 38moh nau mbơh sơm, vơh vơl gĭt lah du huê bunuyh mâu lah lĕ rngôch phung ƀon lan may Israel, ăp nơm gĭt nau krit tâm nuih n'hâm păng nơm jêh ri yơr ti rle năp ma ngih aơ. 39nôk nây dăn may rkêng tôr iăt tă tâm trôk ntŭk may gŭ, jêh ri yô̆ an, ƀư an, sâm mplơ̆ ma ăp nơm tĭng nâm may gĭt năl nuih n'hâm păng, jêh ri tĭng nâm trong chuat păng; yorlah kanŏng êng du huê may dơm dơi gĭt ngăn tâm lĕ ngôch nuih n'hâm bunuyh. 40gay ma khân păng yơk klach ma may du njăr rêh khân păng, jêh ri mra rêh tâm n'gor bri may hŏ ăn jêh ma chô che khân păng. 41"Tâm ban pônây đŏng du huê bu năch, mâu jêng ôh phung ƀon lan may Israel, văch tă bơh bri ngai yor lư amoh may. 42Yorlah khân păng tăng ma amoh toyh may, ti brah may, jêh ri ti may yơr jêh, tơlah păng văch tât mbơh sơm rle năp ma ngih aơ, 43iăt an tă tâm trôk ntŭk may gŭ, jêh ri ƀư tĭng nâm lĕ rngôch nau nơm kuăl mbơh sơm ma may; gay ma lĕ rngôch phung ƀon lan ta neh ntu dơi gĭt amoh may jêh ri klach ma may, nâm bu phung ƀon lan Israel, jêh ri gay ma khân păng dơi gĭt ma ngih aơ gâp ndâk jêh ma may bu ntơ tâm Amoh may. 44"Tơlah phung ƀon lan may du luh tâm lơh đah phung rlăng khân păng, dôl tĭng ndô̆ trong may mra prơh khân păng hăn, jêh ri tơlah khân păng kuăl mbơh sơm ma Yêhôva rle năp ma ƀon aơ jêng ƀon may hŏ săch jêh ri ngih gâp hŏ ndâk ăn ma Amoh may gay ŭch mbơh ma Yêhôva, 45pôri tă tâm trôk, ntŭk may gŭ, dăn may rkêng iăt nau khân păng mbơh sơm jêh ri nau khân păng dăn gay ma koh dŏng kơl kan khân păng. 46"Tơlah khân păng ƀư til đah may yorlah mâu geh ôh du huê bunuyh mâu tih jêh ri nau may ji nuih ma khân păng, jao khân păng ma phung rlăng, bu nhŭp khân păng jêng dĭk nă tâm n'gor bri phung rlăng ntŭk ngai mâu lah dăch; 47ƀiălah tơlah nuih n'hâm khân păng mĭn dôl gŭ tâm bri bu nhŭp leo khân păng jêng bu nă, gĭt nduyh tôr tâm rgâl êng, khân păng nhăl rmal jêh ri vơh vơl ma may tâm n'gor bri phung nhŭp khân păng hăn ƀư dĭk nă, lah: "Hên ƀư tih jêh, jêh ri ƀư nau kue jêh nây djơh mhĭk.' 48Tơlah khân păng nhăl rmal ma lĕ nau mĭn jêh ri ma lĕ nuih n'hâm dôl gŭ tâm bri phung rlăng khân păng, phung nhŭp leo khân păng jêng bu nă, tơlah khân păng mbơh sơm ma may rle năp ma bri khân păng nơm, jêng bri may lĕ ăn jêh ma chô che khân păng, mpeh ƀon may hŏ săch, jêh ri ngih brah gâp ndâk jêh ma Amoh may. 49nôk nây tâm trôk ntŭk may gŭ rkêng iăt nau khân păng mbơh sơm jêh ri nau khân păng vơl, gay ma koh dŏng kơl kan khân păng; 50dăn ma may yô̆ an ma phung ƀon lan may ƀư tih jêh đah may, jêh ri lĕ rngôch nau khân păng rlau nau vay khân păng ƀư jêh đah may; jêh ri ăn khân păng geh nau yô̆ ta năp măt phung nhŭp leo khân păng jêng bună, gay ma bu geh nau yô̆ nđach ma khân păng; 51yorlah khân păng jêng phung ƀon lan may, jêh ri jêng drăp ndơn ma may, jêng phung may ngluh jêh tă bơh n'gor bri Êjipt, tă lơh ta nklang ŭnh năk loih. 52Dăn măt may lin ma nau phung oh mon may vơl, jêh ri nau phung ƀon lan may Israel vơh vơl, dăn may rkêng tôr iăt khân păng tơlah khân păng mbơh sơm ma may. 53Yorlah may hŏ nkhah khân păng du luh tă bơh lĕ rngôch phung ƀon lan kalơ neh ntu, gay ma khân păng jêng drăp ndơn may, tĭng nâm nau may mbơh jêh ma Y-Môis, oh mon may, dôl may ngluh phung chô che hêh du luh bơh n'gor bri Êjipt, Hơi Kôranh Brah Yêhôva." 54Tơlah Y-Salômôn rdŭt jêh nau mbơh sơm aơ jêh ri nau vơh vơl aơ ma Yêhôva, ntŭk păng chon kômâk ti păng yơr leo kalơ trôk. 55Păng dâk, jêh ri mŏt ton ma lĕ rngôch phung Israel gŭ tâm rƀŭn ma bâr huy, lah: 56"Mŏt ton ma Yêhôva, nơm ăn jêh nau rlu ma phung ƀon lan păng Israel, tĭng nâm lĕ rngôch nau păng hŏ ton. Mâu geh ôh du mbâr ngơi pưt tâm lĕ rngôch nau păng ton ueh, păng mbơh jêh ma oh mon păng Y-Môis. 57Dăn ma Yêhôva jêng Brah Ndu he gŭ ndrel ma he, nâm bu păng hŏ gŭ ndrel ma chô che he. Dăn păng lơi dĭng chalơi he mâu lah dun ôh ma he. 58Ăn nuih n'hâm he rle ma păng ƀaƀơ, hăn tâm lĕ rngôch trong păng, jêh ri gay ma he prăp nau păng ntĭnh, nau vay păng, jêh ri nau păng ntrŭnh, nau nây păng hŏ ntăm ma phung chô che he. 59Ăn nau gâp ngơi aơ, nau gâp vơl dăn jêh tra năp măt Yêhôva mra gŭ êp Yêhôva Brah Ndu he nar măng. Jêh ri ăn păng koh dŏng kơl oh mon păng jêh ri kan phung ƀon lan păng Israel tĭng nâm nau tât ăp nar; 60gay ăn lĕ rngôch ntil mpôl bunuyh ta kalơ neh mra gĭt ma Yêhôva jêng Brah Ndu, mâu hôm geh brah êng ôh. 61Pôri, ăn khân may sŏk nuih n'hâm ueh sŏng ngăn jao ma Yêhôva, Brah Ndu he, gŭ rêh tĭng ndô̆ nau vay păng ntĭnh, nâm bu hŏ ƀư nar aơ." 62Jêh nây hadđăch jêh ri lĕ rngôch phung Israel ndrel ma păng nhhơr ndơ ƀư brah ta năp Yêhôva. 63Y-Salômôn nhhơr ma Yêhôva ndơ nhhơr ma nau đăp mpăn bar rmưn bar rbăn mlâm ndrôk jêh ri du rsen bar rmưn mlâm biăp. Pônây hađăch jêh ri lĕ rngôch phung ƀon lan Israel nhhơr ngih brah ma Yêhôva. 64Nar nây, đŏng, hađăch prăp êng ntŭk ta nklang nhhuang panăp ngih Yêhôva, gay ƀư ntŭk nhhơr ndơ nhhơr gŭch, ăp tơ̆ nhhơr ndơ nhhơr ranih muy, jêh ri ngi bơh ndơ nhhơr ma nau đăp mpăn, yorlah nơng kông ta năp măt Yêhôva jê̆ ir, mâu tŏng ôh ntŭk gay n'gân lĕ ndơ nhhơr gŭch, ndơ nhhơr ranih muy jêh ri ngi bơh ndơ nhhơr ma nau đăp mpăn. 65Pônây, nar nây Y-Salômôn jêh ri lĕ ngôch phung ƀon lan Israel ndrel ma păng rgum băl ƀư nau nhêt sa tra năp măt Yêhôva jêng Brah Ndu he tâm pơh nar. Du phung âk ngăn, văch tât ntơm bơh ntŭk lăp ƀon Hamat tât ta dak n'hor n'gor bri Êjipt. 66Lăp năng pham, păng ăn phung ƀon sĭt. Khân păng mŏt ton ma hađăch, jêh nây hăn sĭt rlet ngih vâl khân păng nơm ma nuih n'hâm hâk răm yor lĕ nau ueh Yêhôva tâm mpơl jêh ma Y-David oh mon păng jêh ri ma phung Israel phung ƀon lan păng.