12

Đức Chúa Jêsus tại thành Bê-tha-ni. – Ma-ri lấy dầu thơm xức chân Ngài

(Mat 26:6-13; Mac 14:3-9)

1 Sáu ngày trước lễ Vượt qua, Đức Chúa Jêsus đến thành Bê-tha-ni, nơi La-xa-rơ ở, là người Ngài đã khiến sống lại từ kẻ chết. 2 Người ta đãi tiệc Ngài tại đó, và Ma-thê hầu hạ; La-xa-rơ là một người trong đám ngồi đồng bàn với Ngài. 3 Bấy giờ, Ma-ri lấy một cân dầu cam tùng hương thật, rất quí giá, xức chân Đức Chúa Jêsus, và lấy tóc mình mà lau; cả nhà thơm nức mùi dầu đó. 4 Nhưng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là một môn đồ về sau phản Ngài, nói rằng: 5 Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đơ-ni-ê đặng bố thí cho kẻ nghèo? --- 6 Người nói vậy, chẳng phải lo cho kẻ nghèo đâu, song vì người vốn là tay trộm cắp, và giữ túi bạc, trộm lấy của người ta để ở trong. --- 7 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy để mặc người, người đã để dành dầu thơm nầy cho ngày chôn xác ta. 8 Vì các ngươi thường có kẻ nghèo ở với mình, còn ta, các ngươi không có ta luôn luôn.
9 Một bọn người Giu-đa nghe Đức Chúa Jêsus có tại đó, bèn đến, chẳng những vì Ngài thôi, lại cũng để xem La-xa-rơ, là người Ngài đã khiến từ kẻ chết sống lại. 10 Các thầy tế lễ cả bèn định giết luôn La-xa-rơ nữa, 11 vì có nhiều người Giu-đa nhân cớ người mà chia rẽ họ và tin theo Đức Chúa Jêsus.

Đức Chúa Jêsus vào thành Giê-ru-sa-lem

(Mat 21:1-11; Mac 11:1-11; Lu 19:28-40)

12 Qua ngày sau, có một đám dân đông đến đặng dự lễ, biết Đức Chúa Jêsus lên thành Giê-ru-sa-lem, 13 bèn lấy những lá kè ra đón Ngài, và reo lên rằng: Hô-sa-na! Chúc phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Vua của Y-sơ-ra-ên! 14 Đức Chúa Jêsus gặp một con lừa con, bèn lên cỡi, y như lời chép rằng: 15 Hỡi con gái thành Si-ôn, chớ sợ chi, nầy, Vua ngươi đến, cỡi trên lừa con của lừa cái. 16 Môn đồ trước vốn không hiểu điều đó; nhưng đến khi Đức Chúa Jêsus đã được vinh hiển, mới nhớ lại những sự đó đã chép về Ngài, và người ta đã làm thành cho Ngài. 17 Đoàn dân ở cùng Ngài, khi Ngài kêu La-xa-rơ ra khỏi mộ và khiến từ kẻ chết sống lại, đều làm chứng về Ngài. 18 Ấy cũng tại điều đó mà đoàn dân đi đón Ngài, vì có nghe rằng Ngài đã làm phép lạ ấy. 19 Nhân đó, người Pha-ri-si nói với nhau rằng: Các ngươi thấy mình chẳng làm nổi chi hết; kìa, cả thiên hạ đều chạy theo người!

Mấy người Gờ-réc xin ra mắt Đức Chúa Jêsus. – Chúa phán về sự chết mình gần đến

20 Vả, trong đám đã lên đặng thờ lạy trong kỳ lễ, có mấy người Gờ-réc, 21 đến tìm Phi-líp, là người ở thành Bết-sai-đa, thuộc xứ Ga-li-lê, mà xin rằng: Thưa chúa, chúng tôi muốn ra mắt Đức Chúa Jêsus. 22 Phi-líp đi nói với Anh-rê; rồi Anh-rê với Phi-líp đến thưa cùng Đức Chúa Jêsus. 23 Đức Chúa Jêsus bèn đáp rằng: Giờ đã đến, khi Con Người sẽ được vinh hiển. 24 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột giống lúa mì kia, chẳng chết sau khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả được nhiều. 25 Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất đi, ai ghét sự sống mình trong đời nầy thì sẽ giữ lại đến sự sống đời đời. 26 Nếu ai hầu việc ta, thì phải theo ta, và ta ở đâu, thì kẻ hầu việc ta cũng sẽ ở đó; nếu ai hầu việc ta, thì Cha ta ắt tôn quí người…
27 Hiện nay tâm thần ta bối rối; ta sẽ nói gì?… Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ nầy! Nhưng ấy cũng vì sự đó mà Con đến giờ nầy! 28 Cha ơi, xin làm sáng danh Cha! Bấy giờ có tiếng từ trên trời phán xuống rằng: Ta đã làm sáng danh rồi, ta còn làm cho sáng danh nữa!
29 Đoàn dân ở tại đó nghe tiếng, thì nói rằng ấy là tiếng sấm; có kẻ khác nói: Một vị thiên sứ nào nói với Ngài. 30 Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Ấy chẳng phải vì ta mà tiếng nầy vang ra, nhưng vì các ngươi. 31 Hiện bây giờ, có sự phán xét thế gian nầy, và hiện nay vua chúa của thế gian nầy phải bị xua đuổi. 32 Còn ta, khi ta đã được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta. 33 Ngài phán vậy để chỉ mình phải chết cách nào. 34 Đoàn dân thưa rằng: Chúng tôi có học trong luật pháp rằng Đấng Christ còn đời đời, vậy sao thầy nói Con Người phải bị treo lên? Con Người đó là ai? 35 Đức Chúa Jêsus bèn đáp rằng: Sự sáng còn ở giữa các ngươi ít lâu; hãy đi trong khi các ngươi còn có sự sáng, e rằng sự tối tăm đến thình lình cùng các ngươi chăng; kẻ đi trong nơi tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu. 36 Các ngươi đương có sự sáng, hãy tin sự sáng, hầu cho trở nên con cái của sự sáng.
 Đức Chúa Jêsus phán như vậy, rồi đi, và ẩn mình cách xa họ.

Sự không tin của dân Giu-đa

37 Vả, dẫu Ngài đã làm bấy nhiêu phép lạ trước mặt chúng, họ cũng không tin Ngài, 38 để được ứng nghiệm lời nầy của đấng tiên tri Ê-sai:
 Lạy Chúa, ai đã tin lời giảng chúng tôi,
 Và cánh tay Chúa đã tỏ ra cho ai?
39 Vả lại, chúng không thể tin, vì Ê-sai lại có nói rằng:
40 Ngài đã khiến mắt họ mù, lòng họ cứng,
 Hầu cho mắt chẳng thấy, lòng chẳng hiểu,
 Không tự hối cải,
 Và ta chẳng chữa lành cho.
41 Ê-sai nói điều đó, khi thấy sự vinh hiển của Ngài và nói về Ngài. 42 Nhưng, trong hàng quan trưởng cũng có nhiều người tin Đức Chúa Jêsus; song vì cớ người Pha-ri-si, nên không xưng Ngài ra, sợ bị đuổi khỏi nhà hội chăng. 43 Vì họ chuộng danh vọng bởi người ta đến hơn là danh vọng bởi Đức Chúa Trời đến.
44 Tuy vậy, Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Ai tin ta, chẳng phải tin ta, nhưng tin Đấng đã sai ta đến. 45 Còn ai thấy ta, là thấy Đấng đã sai ta đến. 46 Ta là sự sáng đã đến thế gian, để ai tin ta, chẳng ở nơi tối tăm nữa. 47 Lại nếu kẻ nào nghe lời ta mà không vâng giữ, ấy chẳng phải ta xét đoán kẻ đó; vì ta đến chẳng để xét đoán thế gian, nhưng để cứu chuộc. 48 Người nào bỏ ta ra và không nhận lãnh lời ta, đã có kẻ xét đoán rồi; lời ta đã rao giảng, chính lời đó sẽ xét đoán họ nơi ngày sau cùng. 49 Bởi ta chẳng nói theo ý riêng ta; nhưng Cha sai ta đến, đã truyền lịnh cho ta phải nói điều chi và phải nói thể nào. 50 Ta biết mạng lịnh Cha, ấy là sự sống đời đời. Vậy, những điều ta nói, thì nói theo như Cha ta đã dặn.

12

HʼMari Pik Ia Ƀâo Hiam Ƀơi Tơkai Yêsu Pơ Plei Bêthania

(Mathiơ 26:6-13; Markôs 14:3-9)

1Năm hrơi hlâo kơ hrơi phet Tơlơi Găn, Yêsu truh pơ plei Bêthania jing plei Lazaros dŏ, jing pô Yêsu hơmâo pơhơdip glaĭ laih tơdơi kơ ñu hơmâo djai hĭ laih. 2Pơ anŭn, HʼMartha pơkra tơlơi ƀơ̆ng huă pơpŭ pơyom kơ Yêsu, tơdang anŭn Lazaros hrŏm hơbĭt hăng ƀing dŏ be̱r kiăng kơ ƀơ̆ng huă ƀơi kơƀa̱ng hrŏm hăng Yêsu. 3Giŏng anŭn, HʼMari mă sămkrah lid ia ƀâo hiam arăng pơkra mơ̆ng phŭn nar, jing ia ƀâo hiam yom biă mă, tuh ia ƀâo anŭn ƀơi tơkai Yêsu laih anŭn mă ƀŭk ñu sut ƀơi tơkai anŭn. Amăng sang ƀâo bă hăng ia ƀâo hiam anŭn yơh.
4Samơ̆ Yudas Iskariôt, jing sa čô ding kơna laih anŭn tơdơi anai ñu pơblư̆ Yêsu, pơhiăp pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơlơi bruă anŭn tui anai, 5“Ia ƀâo hiam anŭn khŏm sĭ hĭ laih anŭn mă prăk pha brơi kơ ƀing ƀun rin! Nua yom kơ ia ƀâo hiam anŭn jing nua prăk pơtŭm kơ sa čô mơnuih amăng sa thŭn mă bruă yơh.” 6Ñu laĭ tui anŭn ƀu djơ̆ yuakơ ñu ƀlơ̆ng brơi kơ ƀing ƀun rin ôh, samơ̆ yuakơ ñu jing mơnuih klĕ dŏp. Ñu ăt jing pô djă̱ wai kơdŭng prăk laih anŭn juăt klĕ prăk mơ̆ng anŭn kơ ñu pô.
7Yêsu pơhiăp tui anai, “Anăm ƀuăh kơ gơ̆ ôh, gơ̆ ngă tui anŭn kiăng kơ prap pre kơ hrơi ƀing arăng či dơ̱r atâo Kâo tơdơi kơ Kâo djai yơh. 8Ƀing gih či hơmâo nanao yơh mơnuih ƀun rin hrŏm hăng ƀing gih, samơ̆ ƀing gih ƀu hơmâo Kâo nanao ôh.”
9Tơdang anŭn ƀing mơnuih Yehudah lu thâo krăn kơ tơlơi Yêsu dŏ pơ anŭn laih anŭn ƀing gơñu rai, ƀu djơ̆ kơnơ̆ng rai pơ Yêsu đôč ôh samơ̆ ăt kiăng ƀuh Lazaros mơ̆n, jing pô Yêsu hơmâo pơhơdip glaĭ laih tơdơi kơ ñu hơmâo djai hĭ laih. 10Tui anŭn, ƀing khua ngă yang prŏng ăt pơkra hơdră jơlan kiăng pơdjai hĭ Lazaros mơ̆n. 11Ƀing gơñu ngă tui anŭn yuakơ mơta tơlơi Lazaros jing hĭ hơdip glaĭ dơ̆ng yơh, hơmâo lu ƀing Yehudah đuaĭ tui Yêsu hăng đaŏ kơnang kơ Ñu.

Tơlơi Yêsu Mŭt Hing Ang Pơ Plei Yerusalaim

(Mathiơ 21:1-11; Markôs 11:1-11; Luk 19:28-40)

12Amăng hrơi tŏ tui anŭn, ƀing mơnuih lu, jing ƀing hơmâo rai laih kơ tơlơi phet Tơlơi Găn, hơmư̆ kơ tơlơi Yêsu hlak nao pơ plei Yerusalaim. 13Ƀing gơñu mă khul than hla đung kri nao čơkă Yêsu hăng ur hơ̆k kơdơ̆k tui anai,
  “Bơni hơơč kơ Ñu!

  “Rơkâo kơ Khua Yang Ơi Adai bơni hiam kơ Pô Ñu hơmâo pơkiaŏ rai laih!”
14Yêsu ƀuh sa drơi ană aseh glai laih anŭn đĭ ƀơi gơ̆, kar hăng sa čô pô pơala čih laih amăng Hră Ơi Adai tui anai,
  15“Ơ ƀing ană dra Ziôn, anăm ƀing gih huĭ ôh;
   anai nê, Pơtao gih hlak rai,
   jing Pô đĭ ƀơi ană aseh glai.”
16Hlak anŭn, ƀing ding kơna Yêsu ƀu thâo hluh ôh tơlơi hơdôm tơlơi truh anŭn. Kơnơ̆ng tơdơi kơ Yêsu đĭ glaĭ pơ tơlơi ang yang Ñu đôč, ƀing ding kơna Ñu thâo kơnăl kơ hơdôm tơlơi arăng hơmâo čih laih kơ tơlơi Ñu wơ̆t hăng kơ tơlơi ƀing arăng hơmâo ngă laih kơ Ñu tui anŭn.
17Ƀơi mông anŭn, đơđa ƀing mơnuih lu hơmâo dŏ hăng Yêsu laih tơdang Ñu iâu Lazaros tơbiă mơ̆ng pơsat hăng ngă laih kơ gơ̆ hơdip glaĭ dơ̆ng, ƀing gơñu pơruai kơ lu mơnuih pơkŏn tơlơi anŭn. 18Yuakơ ƀing gơñu hơmâo hơmư̆ laih kơ tơlơi Yêsu hơmâo ngă laih hơdôm tơlơi mơsêh mơyang, ƀing gơñu nao bưp Ñu yơh. 19Tui anŭn, ƀing Pharisai pơlaĭ hăng tơdruă tui anai, “Lăng adih, tơlơi anŭn či ngă brơi kơ ƀing ta ƀu dưi ngă hơget gĕt ôh kiăng kơ pơkhư̆ hĭ Ñu. Abih bang mơnuih amăng lŏn tơnah hơmâo đuaĭ tui Ñu laih.”

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Kơ Tơlơi Ñu Djai

20Hlak anŭn, ăt hơmâo đơđa ƀing Grek amăng ƀing mơnuih đĭ nao kơkuh pơpŭ pơ tơlơi Phet Tơlơi Găn anŭn. 21Ƀing gơñu rai pơ Philip, jing mơnuih mơ̆ng plei Bêtsaida amăng kwar Galilê, hăng rơkâo tui anai, “Ơ gơyut, ƀing gơmơi kiăng kơ bưp Yêsu.” 22Philip nao laĭ kơ Andre laih anŭn Andre hăng Philip nao laĭ hăng Yêsu yơh.
23Yêsu pơhiăp tui anai, “Hrơi mông truh laih kơ Ơi Adai pơpŭ pơyom kơ Kâo, jing Pô trŭn rai laih mơ̆ng adai. 24Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, tơdah ƀu jŭ pla ôh sa jĕh pơdai amăng lŏn kar hăng djai hĭ, sa jĕh pơdai anŭn ăt dŏ kơnơ̆ng sa jĕh đôč. Samơ̆ tơdah jĕh anŭn tŭ dơ̱r kar hăng djai hĭ laih, jĕh pơdai anŭn či pơtơbiă rai lu jĕh pơdai dơ̆ng yơh. 25Hlơi pô kiăng biă mă kiăng kơ tŏ tui hơdip ƀơi lŏn tơnah anai, ñu či djai hĭ. Samơ̆ hlơi pô tŭ ư kiăng kơ djai yuakơ Kâo amăng lŏn tơnah anai, ñu či hơdip hlŏng lar amăng plei hiam yơh. 26Hlơi pô mă bruă kơ Kâo, ñu anŭn khŏm đuaĭ tui Kâo yơh. Pơpă anih Kâo dŏ, ding kơna Kâo anŭn ăt dŏ pơ anŭn mơ̆n. Ama Kâo či pơpŭ pơyom kơ hlơi pô mă bruă kơ Kâo.
27“Ră anai jua bơngăt Kâo rŭng răng biă mă laih anŭn hơget Kâo či laĭ lĕ? ‘Ơ Ama, pơklaih hĭ bĕ Kâo mơ̆ng mông gleh tơnap hăng djai anai’? Ơ ơh, samơ̆ yuakơ tơhơnal tơlơi anai yơh, Kâo rai truh pơ mông ruă nuă anai. 28Ơ Ama ăh, pơrơđah bĕ hiư̆m yom prŏng Ih jing!”
 Hlak anŭn, Ơi Adai hiăp trŭn mơ̆ng adai tui anai, “Kâo hơmâo pơrơđah laih hiư̆m yom prŏng Kâo jing laih anŭn Kâo či ngă tui anŭn dơ̆ng!”
29Ƀing mơnuih lu dŏ pơ anih anŭn hơmư̆ jua hiăp anŭn, đơđa mơnuih amăng ƀing gơñu laĭ kơ tơlơi anŭn jing jua grŏm. Ƀing pơkŏn dơ̆ng laĭ kơ tơlơi sa čô ling jang hiam hơmâo pơhiăp hrŏm hăng Ñu.
30Yêsu laĭ tui anai, “Ơi Adai pơhiăp laih kiăng kơ tŭ yua kơ ƀing gih yơh, ƀu djơ̆ kơnơ̆ng tŭ yua kơ Kâo đôč ôh. 31Ră anai jing mông kơ Ơi Adai kiăng kơ phat kơđi mơnuih mơnam ƀơi lŏn tơnah anai laih anŭn Ơi Adai či dưi hĭ kơ yang sat yơh jing pô git gai mơnuih mơnam ƀơi lŏn tơnah anai. 32Samơ̆ bơ kơ Kâo, tơdang arăng yŏng đĭ Kâo mơ̆ng lŏn tơnah ƀơi kơyâo bơrơkal, Kâo či dui ba abih bang mơnuih rai pơ Kâo pô yơh.” 33Ñu laĭ kơ tơlơi anŭn kiăng pơrơđah kơ tơlơi hiư̆m Ñu či djai yơh.
34Đơđa mơnuih amăng ƀing mơnuih lu laĭ tui anai, “Ƀing gơmơi hơmâo hơmư̆ laih mơ̆ng hră Tơlơi Juăt laĭ kơ tơlơi Pô Krist či dŏ hơdip nanao, tui anŭn hiư̆m pă Ih dưi laĭ kơ tơlơi arăng či yŏng đĭ hĭ ƀơi kơyâo bơrơkal, jing Pô trŭn rai laih mơ̆ng adai lĕ? Hlơi jing ‘Pô trŭn rai mơ̆ng adai’ anŭn lĕ?”
35Giŏng anŭn, Yêsu ruai kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing gih či hơmâo Kâo kar hăng tơlơi bơngač kơnơ̆ng sui ƀiă dơ̆ng đôč. Rơbat bĕ tơdang ƀing gih hơmâo tơlơi bơngač, jing hlâo kơ tơlơi kơnăm mơmŏt truh pơ ƀing gih. Hlơi pô rơbat amăng tơlơi kơnăm mơmŏt, ñu anŭn ƀu thâo ôh pơpă ñu či nao. 36Ƀing gih khŏm đaŏ kơnang kơ Kâo bĕ jing Pô kar hăng tơlơi bơngač tơdang ƀing gih ăt dŏ hơmâo Kâo anai, kiăng kơ ƀing gih dưi jing ƀing mơnuih kar hăng tơlơi bơngač kơ ƀing arăng yơh.” Tơdang Yêsu pơhiăp giŏng laih hơdôm tơlơi anŭn, Ñu đuaĭ hĭ laih anŭn pơdŏp hĭ Ñu pô mơ̆ng ƀing mơnuih lu anŭn.

Ƀing Khua Djă̱ Akŏ Ƀing Yehudah Ăt Ƀu Đaŏ Kơnang Kơ Yêsu Ôh

37Wơ̆t tơdah Yêsu hơmâo ngă laih abih bang tơlơi mơsêh mơyang ƀơi anăp mơta ƀing khua djă̱ akŏ ƀing Yehudah, ƀing gơñu ăt ƀu đaŏ kơnang kơ Ñu ôh. 38Tơlơi truh anŭn kiăng kơ pơkrĕp truh hĭ tui hăng hiăp pô pơala Yesayah hơmâo čih tui anai:
  “Ơ Khua Yang, ƀiă kơ ƀu hơmâo hlơi pô ôh đaŏ kơnang kơ boh hiăp ƀing gơmơi pơtô
   wơ̆t tơdah Ih pơrơđah laih kơ ƀing gơñu hiư̆m kơtang mơyang Ih jing yơh!”
39Yuakơ tơhơnal tơlơi anŭn yơh ƀing gơñu ƀu dưi đaŏ kơnang ôh laih anŭn yuakơ tui hăng pô pơala Yesayah hơmâo laĭ tui anai dơ̆ng:
  40“Khua Yang hơmâo pơbum hĭ laih mơta gơñu,
   laih anŭn pơkhăng hĭ pran jua gơñu,
   kiăng kơ ƀing gơñu ƀu dưi ƀuh ôh hăng mơta gơñu,
   ƀu thâo hluh ôh hăng pran jua gơñu,
   kŏn thâo kơhma̱l lơi, tui anŭn Kâo, Khua Yang, či pơsuaih hĭ ƀing gơñu.”
41Yesayah pơhiăp tui anŭn đưm hlâo adih yuakơ ñu ƀuh hlâo laih hiư̆m yom prŏng Yêsu či jing laih anŭn pơhiăp laih kơ tơlơi Ñu yơh.
42Samơ̆ amăng mông anŭn ăt hơmâo lu mơnuih amăng ƀing khua ba akŏ đaŏ kơnang kơ Yêsu. Wơ̆t tơdah tui anŭn, ƀing gơñu ƀu khĭn ră ruai kơ ƀing arăng ôh, huĭ kơ ƀing Pharisai či puh pơđuaĭ hĭ ƀing gơñu mơ̆ng sang pơjơnum. 43Ƀing khua ba akŏ tơlơi đaŏ anŭn ngă tui anŭn yuakơ ƀing gơñu khăp kơ tơlơi mơnuih mơnam bơni kơ ƀing gơñu hloh kơ khăp kơ tơlơi Ơi Adai bơni kơ ƀing gơñu.
44Giŏng anŭn, Yêsu pơhiăp kraih tui anai, “Hlơi pô đaŏ kơnang kơ Kâo, ñu anŭn ƀu djơ̆ đaŏ kơnang amăng Kâo đôč ôh, samơ̆ ñu anŭn ăt đaŏ kơnang kơ Pô hơmâo pơkiaŏ rai laih kâo mơ̆n. 45Tơdang ñu lăng ƀơi Kâo, anŭn jing kar hăng ñu ƀuh yơh Pô hơmâo pơkiaŏ rai laih Kâo. 46Kâo hơmâo rai laih pơ lŏn tơnah anai jing kar hăng tơlơi bơngač, kiăng kơ hlơi pô đaŏ kơnang kơ Kâo, ñu anŭn ƀu či jing hĭ pô ƀu thâo phe pho kơ tơlơi Ơi Adai ôh, samơ̆ či jing hĭ kar hăng pô ƀu dŏ amăng tơlơi kơnăm mơmŏt yơh.
47“Bơ kơ hlơi pô hơmư̆ hiăp Kâo samơ̆ ƀu gưt tui ôh, Kâo ƀu phat kơđi ñu ôh. Tơhơnal tơlơi Kâo rai ƀu djơ̆ kiăng kơ phat kơđi mơnuih mơnam lŏn tơnah anai ôh, samơ̆ kiăng kơ pơklaih hĭ ƀing gơñu yơh. 48Hơmâo sa čô Khua Phat Kơđi kơ hlơi pô ƀu tŭ ju̱m ôh Kâo laih anŭn ƀu gưt tui ôh hơdôm boh hiăp Kâo. Anŭn jing, Ơi Adai yơh či klă̱ kơđi kơ ñu ƀơi hrơi hơnăl tuč yuakơ ñu hơngah hĭ laih rĭm boh hiăp Kâo pơhiăp laih. 49Kâo laĭ tui anŭn yuakơ Kâo ƀu pơhiăp tui hăng Kâo pô ôh, samơ̆ Ama Kâo, jing Pô pơkiaŏ rai Kâo, hơmâo pơđar laih kơ Kâo hơget tơlơi Kâo či pơhiăp laih anŭn hiư̆m Kâo pơhiăp. 50Kâo thâo sĭt kơ tơlơi đaŏ kơnang kơ tơlơi Ñu pơđar jing djru kơ mơnuih mơnam hơdip hlŏng lar yơh. Tui anŭn, abih bang tơlơi Kâo pơhiăp jing kơnơ̆ng tui hăng tơlơi Ama Kâo hơmâo pơtă laih kơ Kâo kiăng kơ pơhiăp đôč.”