6

Đức Chúa Jêsus tại Ga-li-lê. – Sự hóa bánh ra nhiều

(Mat 14:13-21; Mac 6:30-44; Lu 9:10-17)

1 Rồi đó, Đức Chúa Jêsus qua bờ bên kia biển Ga-li-lê, là biển Ti-bê-ri-át. 2 Một đoàn dân đông theo Ngài, vì từng thấy các phép lạ Ngài làm cho những kẻ bịnh. 3 Nhưng Đức Chúa Jêsus lên trên núi, ngồi đó với môn đồ. 4 Vả, lễ Vượt qua, là lễ của dân Giu-đa gần tới. 5 Đức Chúa Jêsus ngước mắt lên, thấy một đoàn dân đông đến cùng mình, bèn phán với Phi-líp rằng: Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu, để cho dân nầy có mà ăn? 6 Ngài phán điều đó đặng thử Phi-líp, chớ Ngài đã biết điều Ngài sẽ làm rồi. 7 Phi-líp thưa rằng: Hai trăm đơ-ni-ê bánh không đủ phát cho mỗi người một ít. 8 Một môn đồ, là Anh-rê, em của Si-môn Phi-e-rơ, thưa rằng: 9 Đây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?
10 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hãy truyền cho chúng ngồi xuống. Vả, trong nơi đó có nhiều cỏ. Vậy, chúng ngồi xuống, số người ước được năm ngàn. 11 Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bèn phân phát cho những kẻ đã ngồi; Ngài cũng lấy cá phát cho chúng nữa, ai muốn bao nhiêu mặc ý. 12 Khi chúng đã ăn được no nê, Ngài phán với môn đồ rằng: Hãy lượm những miếng còn thừa, hầu cho không mất chút nào. 13 Vậy, môn đồ lượm những miếng thừa của năm cái bánh mạch nha, sau khi người ta đã ăn rồi, chứa đầy mười hai giỏ.
14 Những người đó thấy phép lạ Đức Chúa Jêsus đã làm, thì nói rằng: Người nầy thật là đấng tiên tri phải đến thế gian. 15 Bấy giờ Đức Chúa Jêsus biết chúng có ý đến ép Ngài để tôn làm vua, bèn lui ở một mình trên núi.

Đức Chúa Jêsus đi bộ trên mặt biển

(Mat 14:22-33; Mac 6:45-52)

16 Đến chiều, môn đồ xuống nơi bờ biển, 17 và vào trong một chiếc thuyền, sang thẳng bờ bên kia, hướng về thành Ca-bê-na-um. Trời chợt tối, mà Đức Chúa Jêsus còn chưa đến cùng các môn đồ. 18 Gió thổi ào ào, đến nỗi biển động dữ dội. 19 Khi các môn đồ đã chèo ra độ chừng hai mươi lăm hay là ba mươi ếch-ta-đơ, thấy Đức Chúa Jêsus đi trên mặt biển, gần tới chiếc thuyền, thì sợ hãi. 20 Nhưng Ngài phán rằng: Ấy là ta đây, đừng sợ chi! 21 Bấy giờ, môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyền đậu vào bờ, là nơi định đi.

Bánh của sự sống

22 Đoàn dân ở bờ biển bên kia, đã nhận rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền, và Đức Chúa Jêsus không vào thuyền với môn đồ Ngài, chỉ một mình môn đồ đi mà thôi. 23 Qua ngày sau, có mấy chiếc thuyền khác từ thành Ti-bê-ri-át lại gần nơi chúng đã ăn bánh khi Chúa tạ ơn rồi, 24 đoàn dân thấy Đức Chúa Jêsus không ở đó, môn đồ cũng không, bèn vào mấy thuyền kia mà đi qua thành Ca-bê-na-um để tìm Đức Chúa Jêsus. 25 Chúng vừa tìm được Ngài tại bờ bên kia biển, bèn thưa rằng: Lạy thầy, thầy đến đây bao giờ? 26 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi tìm ta chẳng phải vì đã thấy mấy phép lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh và được no. 27 Hãy làm việc, chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi; vì ấy là Con, mà Cha, tức là chính Đức Chúa Trời, đã ghi ấn tín của mình. 28 Chúng thưa rằng: Chúng tôi phải làm chi cho được làm công việc Đức Chúa Trời? 29 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài.
30 Chúng bèn nói rằng: Thế thì thầy làm phép lạ gì, để cho chúng tôi thấy và tin? Thầy làm công việc gì? 31 Tổ phụ chúng ta đã ăn ma-na trong đồng vắng, theo như lời chép rằng: Ngài đã ban cho họ ăn bánh từ trên trời xuống. 32 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, Môi-se chưa hề cho các ngươi bánh từ trên trời đâu; nhưng Cha ta ban cho các ngươi bánh thật, là bánh từ trên trời xuống. 33 Bởi chưng bánh Đức Chúa Trời là bánh từ trên trời giáng xuống, ban sự sống cho thế gian. 34 Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin ban bánh đó cho chúng tôi luôn luôn! 35 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát. 36 Nhưng ta đã nói: Các ngươi đã thấy ta, mà chẳng tin. 37 Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu. 38 Vì ta từ trên trời xuống, chẳng phải để làm theo ý ta, nhưng làm theo ý Đấng đã sai ta đến. 39 Vả, ý muốn của Đấng đã sai ta đến, là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt. 40 Đây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; còn ta, ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt.
41 Nhưng vì Ngài đã phán: Ta là bánh từ trên trời xuống, nên các người Giu-đa lằm bằm về Ngài, 42 mà rằng: Ấy chẳng phải là Jêsus, con của Giô-sép, mà chúng ta đều biết cha mẹ người chăng? Vậy, thể nào người nói được rằng: Ta đã từ trên trời mà xuống? 43 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi chớ lằm bằm với nhau. 44 Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta, và ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt. 45 Các sách tiên tri có chép rằng: Ai nấy đều sẽ được Đức Chúa Trời dạy dỗ. Hễ ai đã nghe Cha và học theo Ngài thì đến cùng ta. 46 Ấy chẳng phải kẻ nào đã từng thấy Cha, trừ ra Đấng từ Đức Chúa Trời mà đến; Đấng ấy đã thấy Cha. 47 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời. 48 Ta là bánh của sự sống. 49 Tổ phụ các ngươi đã ăn ma-na trong đồng vắng, rồi cũng chết. 50 Đây là bánh từ trời xuống, hầu cho ai ăn chẳng hề chết. 51 Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng; và bánh mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta.
52 Bởi đó, các người Giu-đa cãi lẽ với nhau, mà rằng: Lẽ nào người nầy lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao? 53 Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu. 54 Ai ăn thịt và uống huyết ta thì được sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta sẽ khiến người đó sống lại. 55 Vì thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống. 56 Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người. 57 Như Cha, là Đấng hằng sống, đã sai ta đến, và ta sống bởi Cha; cũng một thể ấy, người nào ăn ta, sẽ sống bởi ta vậy. 58 Đây là bánh từ trên trời xuống. Bánh đó chẳng phải như ma-na mà tổ phụ các ngươi đã ăn,… rồi cũng chết; kẻ nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời.
59 Đức Chúa Jêsus phán những điều đó lúc dạy dỗ trong nhà hội tại thành Ca-bê-na-um. 60 Có nhiều môn đồ nghe Ngài, thì nói rằng: Lời nầy thật khó; ai nghe được? 61 Nhưng Đức Chúa Jêsus tự mình biết môn đồ lằm bằm về việc đó, bèn phán rằng: Điều đó xui các ngươi vấp phạm sao? 62 Vậy, nếu các ngươi thấy Con người lên nơi Ngài vốn ở khi trước thì thể nào? 63 Ấy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi. Những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống. 64 Song trong vòng các ngươi có kẻ không tin. Vì Đức Chúa Jêsus biết từ ban đầu, ai là kẻ không tin, ai là kẻ sẽ phản Ngài. 65 Ngài lại phán rằng: Chính vì cớ đó, mà ta đã nói cùng các ngươi rằng nếu Cha chẳng ban cho, thì chẳng ai tới cùng ta được.

Phi-e-rơ xưng Chúa ra

66 Từ lúc ấy, có nhiều môn đồ Ngài trở lui, không đi với Ngài nữa. 67 Đức Chúa Jêsus phán cùng mười hai sứ đồ rằng: Còn các ngươi, cũng muốn lui chăng? 68 Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời của sự sống đời đời; 69 chúng tôi đã tin, và nhận biết rằng Chúa là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời. 70 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta há chẳng đã chọn các ngươi là mười hai sứ đồ sao? Mà một người trong các ngươi là quỉ! 71 Vả, Ngài nói về Giu-đa con Si-môn Ích-ca-ri-ốt; vì chính hắn là một trong mười hai sứ đồ, sau sẽ phản Ngài.

6

Yêsu Čem Rơma-Rơbâo Čô Mơnuih

(Mathiơ 14:13-21; Markôs 6:30-44; Luk 9:10-17)

1Tơdơi kơ anŭn ƀiă, Yêsu wơ̆t hăng ƀing ding kơna Ñu găn nao hăng sŏng pơ gah adih ha̱ng ia dơnao Galilê, dơnao anŭn ăt jing dơnao Tiberias mơ̆n, 2laih anŭn hơmâo ƀing mơnuih lu kiaŏ tui Yêsu ƀơi jơlan lŏn yuakơ ƀing gơñu hơmâo ƀuh laih hơdôm gru tơlơi mơsêh mơyang Ñu hơmâo pơsuaih laih ƀing duăm ruă. 3Giŏng anŭn, Yêsu đĭ nao pơ bŏl čư̆ laih anŭn dŏ be̱r hrŏm hăng ƀing ding kơna Ñu kiăng kơ pơtô kơ ƀing gơñu. 4Tơlơi Phet Tơlơi Găn ƀing Yehudah jĕ či truh laih.
5Tơdang Yêsu angak lăng đĭ ƀuh ƀing mơnuih lu rai pơ Ñu, Ñu tơña kơ ding kơna Ñu Philip tui anai, “Pơ anih pă ƀing ta dưi blơi ƀañ tơpŭng kơ ƀing mơnuih anai kiăng kơ ƀơ̆ng lĕ?” 6Yêsu tơña tui anŭn kơnơ̆ng kiăng kơ lông lăng đôč tơdah Philip đaŏ mơ̆n thâo kơ tơlơi Yêsu či ngă đơđa tơlơi bruă, yuakơ Ñu hơmâo pơmĭn laih tơlơi Ñu či ngă.
7Philip laĭ glaĭ kơ Ñu tui anai, “Nua apăh sapăn blan ƀu dưi blơi djŏp ôh ƀañ tơpŭng kơ rĭm čô wơ̆t tơdah kơnơ̆ng hơmâo sa čơđeh anet đôč!”
8Pô ding kơna pơkŏn anăn Andre, adơi Simôn, laĭ tui anai, 9“Pơ anai hơmâo sa čô čơđai rơkơi hơmâo rơma tơlŏ ƀañ tơpŭng hăng dua drơi akan anet, samơ̆ sĭt hơdôm gơnam ƀơ̆ng anŭn ƀu či pơpha djŏp ôh kơ ƀing mơnuih lu kar hăng anai!”
10Yêsu laĭ tui anai, “Brơi kơ ƀing gơñu dŏ be̱r bĕ.” Pơ anih anŭn hơmâo rơ̆k mơda lu laih anŭn ƀing gơñu dŏ be̱r yơh. Ƀing mơnuih hơmâo pơ anŭn kơplăh wăh rơma-rơbâo čô kơnơ̆ng yap ƀing đah rơkơi đôč. 11Giŏng anŭn, Yêsu mă hơdôm ƀañ tơpŭng anŭn, bơni hơơč kơ Ơi Adai laih anŭn jao brơi kơ ƀing ding kơna Ñu pơpha brơi gơnam ƀơ̆ng kơ ƀing mơnuih dŏ be̱r pơ anŭn ƀơ̆ng dơ̆ pă ƀing gơñu kiăng yơh. Ñu ăt ngă kar hăng anŭn mơ̆n hăng khul akan anŭn.
12Tơdang abih bang ƀing gơñu ƀơ̆ng trơi laih, Yêsu pơđar kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Duñ mă bĕ hơdôm čơđeh rơmeh rơbeh anŭn. Anăm pơhoăč hĭ čơđeh rơmeh anŭn ôh.” 13Tui anŭn, ƀing gơñu duñ mă hơdôm čơđeh rơmeh anŭn hơmâo bă truh kơ pluh-dua boh bai hăng čơđeh rơmeh mơ̆ng rơma tơlŏ ƀañ tơpŭng ƀing arăng ƀơ̆ng rơbeh laih.
14Tơdơi kơ ƀing mơnuih lu anŭn ƀuh tơlơi mơsêh mơyang Yêsu hơmâo ngă laih, ƀing gơñu čơdơ̆ng laĭ tui anai, “Sĭt yơh anai jing Pô Pơala, jing Pô khŏm rai pơ lŏn tơnah anai yơh.” 15Yuakơ Yêsu thâo krăn tơlơi pơmĭn gơñu kiăng kơ pơgŏ̱ Yêsu jing pơtao, Ñu rơiăt đuaĭ nao hĭ hơjăn pơ čư̆.

Yêsu Rơbat Ƀơi Jơlah Ia

(Mathiơ 14:22-33; Markôs 6:45-52)

16Tơdang klăm truh laih, ƀing ding kơna Ñu trŭn nao pơ ha̱ng ia dơnao, 17hăng đĭ amăng sa boh sŏng kiăng găn nao pơ gah adih dơnao anŭn, či nao pơ plei Kapharnaoum yơh. Hlak anŭn hrơi mơmŏt laih, laih anŭn Yêsu ăt aka ƀu nao truh pơ ƀing gơñu ôh. 18Angĭn hlak thut kơtang laih anŭn jơlah ia păh pung prŏng tui yơh. 19Tơdang ƀing gơñu hơmâo waih sŏng gơñu truh kơ klâo juă ƀôdah klâo juă sămkrah laih, ƀing gơñu ƀuh Yêsu hlak rơbat rai pơ sŏng gơñu ƀơi jơlah ia. Ƀing gơñu huĭ bra̱l biă mă yơh. 20Samơ̆ Yêsu laĭ, “Kâo yơh anai, anăm huĭ ôh!” 21Tui anŭn, ƀing ding kơna brơi kơ Yêsu đĭ amăng sŏng, ƀơi mông anŭn mơtam sŏng gơñu truh hĭ pơ ha̱ng jing anih ƀing gơñu kiăng kơ nao yơh.
22Amăng hrơi tŏ tui, ƀing mơnuih lu, jing ƀing dŏ pơ ha̱ng gah adih dơnao, thâo krăn kơnơ̆ng sa boh sŏng đôč pơ anŭn laih anŭn Yêsu ƀu hơmâo đĭ amăng sŏng anŭn hrŏm hăng ƀing ding kơna Ñu ôh, samơ̆ ƀing ding kơna anŭn hơmâo đuaĭ nao hĭ laih hơjăn gơñu. 23Đơđa hơmâo sŏng pơkŏn mơ̆ng plei Tiberias rai jĕ pơ anih ƀing mơnuih lu hơmâo ƀơ̆ng laih ƀañ tơpŭng tơdơi kơ Yêsu hơmâo bơni hơơč hăng pha brơi laih kơ ƀing arăng. 24Tơdang ƀing mơnuih lu thâo krăn kơ tơlơi Yêsu wơ̆t hăng ƀing ding kơna Ñu ƀu dŏ pơ anŭn ôh, ƀing gơñu đĭ amăng khul sŏng anŭn hăng nao pơ plei Kapharnaoum kiăng hơduah Yêsu.

Yêsu, Jing Kar Hăng Ƀañ Tơpŭng, Ngă Kơ Mơnuih Mơnam Hơdip

25Tơdang ƀing gơñu ƀuh Yêsu pơ ha̱ng ia gah adih, ƀing gơñu rơkâo kơ Ñu tui anai, “Ơ Nai, hơbĭn Ih hơmâo rai laih pơ anai lĕ?”
26Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, ƀing gih hơduah sem Kâo, ƀu djơ̆ kơ tơlơi ƀing gih ƀuh laih tơlơi mơsêh mơyang ôh, samơ̆ yuakơ ƀing gih hơmâo ƀơ̆ng laih ƀañ tơpŭng hăng trơi hrăp laih. 27Anăm kơnơ̆ng mă bruă kơ gơnam ƀơ̆ng thâo răm rai đôč ôh, samơ̆ khăp kiăng bĕ kơ tơlơi kar hăng gơnam ƀơ̆ng či djru kơ ƀing gih kiăng kơ hơdip hlŏng lar, jing gơnam Kâo, jing Ană Mơnuih mơ̆ng plei hiam, či pha brơi kơ ƀing gih. Ơi Adai, Ama Kâo, hơmâo pơrơđah laih kơ tơlơi Ñu pơrơklă kơ tơlơi bruă Kâo hlak ngă.”
28Giŏng anŭn, ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Hơget tơlơi ƀing gơmơi khŏm ngă kiăng kơ pơmơak kơ Ơi Adai lĕ?”
29Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Anai yơh jing bruă Ơi Adai hơduah kiăng: Đaŏ bĕ kơ Kâo, jing Pô Ơi Adai hơmâo pơkiaŏ rai laih.”
30Tui anŭn, ƀing gơñu tơña tui anai, “Tui anŭn, hơget gru tơlơi mơsêh mơyang Ih ngă kiăng kơ ƀing gơmơi ƀuh laih anŭn đaŏ kơnang kơ Ih lĕ? 31Ƀing ơi adon ta ƀơ̆ng laih tơpŭng mana amăng tơdron ha̱r tui hăng Hră Ơi Adai hơmâo čih laih tui anai, ‘Ơi Adai hơmâo brơi laih kơ gơñu ƀơ̆ng ƀañ mơ̆ng adai kiăng kơ ƀơ̆ng.’ ”
32Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, ƀu djơ̆ Môseh ôh jing pô pha brơi kơ ƀing gih ƀañ tơpŭng mơ̆ng adai, samơ̆ Ama Kâo pô yơh jing Pô pha brơi kơ ƀing gih mơta tơlơi jing kar hăng ƀañ sĭt mơ̆ng adai adih. 33Mơta tơlơi Ơi Adai pha brơi kar hăng ƀañ tơpŭng anŭn jing Pô trŭn rai laih mơ̆ng adai laih anŭn ngă brơi kơ ƀing mơnuih mơnam lŏn tơnah kiăng kơ hơdip yơh.”
34Ƀing gơñu laĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, čơdơ̆ng mơ̆ng ră anai rơkâo kơ Ih pha brơi ƀañ anŭn nanao bĕ kơ ƀing gơmơi.”
35Yêsu pơhiăp pơhơmutu tui anai, “Kâo yơh jing ƀañ tơpŭng ngă brơi kơ mơnuih mơnam hơdip. Hlơi pô rai kơ Kâo, ñu anŭn ƀu či rơpa ôh, laih anŭn hlơi pô đaŏ kơnang kơ Kâo, ñu anŭn ƀu či mơhao dơ̆ng tah. 36Samơ̆ tui hăng tơlơi Kâo laĭ laih kơ ƀing gih, ƀing gih hơmâo ƀuh laih Kâo samơ̆ ƀing gih ƀu đaŏ kơnang kơ Kâo ôh. 37Abih bang ƀing mơnuih Yang Ama jao kơ Kâo, ƀing gơñu či rai pơ Kâo yơh, laih anŭn hlơi pô rai pơ Kâo, kâo ƀu či puh pơđuaĭ hĭ ñu ôh. 38Yuakơ Kâo hơmâo rai laih mơ̆ng adai ƀu djơ̆ kiăng ngă tui hăng tơlơi Kâo pô kiăng ôh, samơ̆ ngă tui hăng tơlơi Pô pơkiaŏ rai Kâo kiăng yơh. 39Laih anŭn anai yơh jing mơta tơlơi Pô pơkiaŏ rai Kâo kiăng: Kâo ƀu či rơngiă hĭ hlơi pô ôh amăng ƀing gơñu jing ƀing Ñu hơmâo jao brơi laih kơ Kâo, samơ̆ či ngă kơ ƀing gơñu jing hĭ hơdip dơ̆ng ƀơi hrơi hơnăl tuč yơh. 40Anai jing mơta tơlơi Ama Kâo kiăng kơ rĭm čô: Hlơi pô lăng pơ Kâo, jing Ană Ñu, laih anŭn đaŏ kơnang kơ Kâo, ñu anŭn či hơdip hlŏng lar hăng Ơi Adai, laih anŭn Kâo či ngă brơi kơ ñu jing hĭ hơdip dơ̆ng yơh amăng hrơi hơnăl tuč tơdang Kâo či phat kơđi mơnuih mơnam.”
41Ƀơi mông anŭn ƀing Yehudah čơdơ̆ng pơhiăp brŏk kơ Yêsu yơh yuakơ Ñu laĭ tui anai, “Kâo jing ƀañ tơbiă rai mơ̆ng adai.” 42Ƀing gơñu pơlaĭ tui anai, “Anŭn jing kơnơ̆ng kơ Yêsu jing ană Yôsêp đôč, laih anŭn jing Pô amĭ ama Ñu abih bang ƀing ta thâo soh sel! Sĭt yơh Ñu ƀu dưi laĭ tui anai ôh, ‘Kâo trŭn rai laih mơ̆ng adai’!”
43Yêsu pơhiăp tui anai, “Anăm pơhiăp brŏk hăng tơdruă ôh. 44Ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi rai pơ Kâo tơdah Ama Kâo, jing Pô pơkiaŏ rai Kâo, ƀu dui ba ôh mơnuih anŭn rai pơ Kâo, laih anŭn Kâo či ngă kơ ñu jing hĭ hơdip dơ̆ng amăng hrơi hơnăl tuč yơh. 45Amăng hră ƀing pô pơala hơmâo čih laih tui anai, ‘Ơi Adai yơh či pơtô brơi kơ abih bang ƀing gơñu.’ Hlơi pô hơmư̆ tui Ama Kâo hăng hrăm mơ̆ng Ñu, ñu anŭn rai pơ Kâo yơh. 46Ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi ƀuh Ama Kâo rơngiao kơ Kâo, jing Pô rai mơ̆ng Ơi Adai, kơnơ̆ng Kâo đôč yơh hơmâo ƀuh laih Ama Kâo. 47Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, hlơi pô đaŏ kơnang kơ Kâo, ñu anŭn hơmâo čơdơ̆ng laih kiăng kơ hơdip hlŏng lar. 48Kâo jing kar hăng ƀañ ngă brơi kơ mơnuih mơnam hơdip hlŏng lar yơh. 49Ƀing ơi adon gih ƀơ̆ng laih ƀañ mana amăng tơdron ha̱r, samơ̆ ƀing gơñu ăt djai laih mơ̆n. 50Samơ̆ Kâo hrup hăng ƀañ tơpŭng trŭn rai mơ̆ng adai, laih anŭn hlơi pô ƀơ̆ng ƀañ tơpŭng anai ñu anŭn ƀu či djai hĭ gah bơngăt ôh. 51Kâo jing ƀañ tơlơi hơdip trŭn rai mơ̆ng adai jing ngă kơ ƀing arăng hơdip. Tơdah hlơi ƀơ̆ng ƀañ anai, ñu anŭn či hơdip hlŏng lar yơh. Ƀañ anai jing kơđeh asar Kâo pô yơh, jing tơlơi Kâo či pha brơi kiăng kơ ngă kơ ƀing mơnuih mơnam hơdip hlŏng lar.”
52Giŏng anŭn, ƀing khua ba akŏ ƀing Yehudah čơdơ̆ng pơrơjăh kơtang tơdruă gơñu tui anai, “Pô anŭn ƀu dưi brơi kơ ƀing ta kơđeh asar Ñu kiăng ƀơ̆ng ôh!”
53Yêsu pơhiăp pơhơmutu kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, tơdah ƀing gih ƀu ƀơ̆ng ôh kơđeh asar Kâo, jing Ană Mơnuih trŭn rai mơ̆ng adai, hăng mơñum drah Kâo, ƀing gih ƀu či hơdip hlŏng lar ôh. 54Hlơi pô ƀơ̆ng kơđeh asar Kâo laih anŭn mơñum drah Kâo, ñu anŭn hơmâo čơdơ̆ng hơdip hlŏng lar laih, laih anŭn Kâo či ngă kơ ñu jing hĭ hơdip dơ̆ng ƀơi hrơi hơnăl tuč yơh, 55yuakơ kơđeh asar Kâo jing gơnam ƀơ̆ng sĭt laih anŭn drah Kâo ăt jing gơnam mơñum sĭt mơ̆n. 56Hlơi pô ƀơ̆ng asar Kâo laih anŭn mơñum drah Kâo, ñu anŭn tŏ tui tŭ pơgop sa hăng Kâo, laih anŭn Kâo tŏ tui pơgop sa hăng ñu yơh. 57Ama Kâo, jing Pô ngă brơi kơ ƀing mơnuih mơnam kiăng kơ hơdip, pơkiaŏ rai laih Kâo laih anŭn Ñu ngă brơi laih kơ Kâo hơdip. Tui anŭn ăt kar kaĭ mơ̆n, hlơi pô ƀơ̆ng Kâo, Kâo či ngă brơi kơ ñu anŭn hơdip hlŏng lar yơh. 58Anai jing kar hăng ƀañ tơpŭng trŭn rai mơ̆ng adai. Ƀing ơi adon gih ƀơ̆ng laih ƀañ mana laih anŭn djai laih, samơ̆ hlơi pô ƀơ̆ng ƀañ anai, ñu anŭn či hơdip hlŏng lar yơh.” 59Yêsu pơhiăp tơlơi anŭn tơdang Ñu hlak pơtô pơblang amăng sang jơnum amăng plei Kapharnaoum.

Lu Ƀing Ding Kơna Đuaĭ Lui Hĭ Yêsu

60Tơdang ƀing ding kơna Ñu hơmư̆ kơ tơlơi Yêsu pơtô anŭn, hơmâo đơđa ƀing gơñu laĭ tui anai, “Tơlơi pơtô anŭn jing tơnap thâo hluh đơi. Ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi tŭ mă tơlơi pơtô anŭn!”
61Tơdang Yêsu thâo kơnăl kơ tơlơi ƀing ding kơna Ñu brŏk ƀuăh kơ tơlơi anŭn, Ñu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Pap mơñai yơh, tơlơi Kâo pơtô anŭn ngă brơi kơ ƀing gih kiăng kơ đuaĭ ataih hĭ! 62Tui anŭn, hơget tơlơi ƀing gih či pơmĭn lĕ tơdah Kâo, jing Pô mơ̆ng plei hiam, đĭ glaĭ pơ adai adih lĕ? 63Yang Bơngăt Ơi Adai ngă kơ ƀing mơnuih mơnam hơdip. Ƀing mơnuih mơnam ƀu dưi ngă brơi kơ gơñu pô hơdip ôh. Hơdôm boh hiăp Kâo hơmâo pơhiăp laih kơ ƀing gih jing mơ̆ng Yang Bơngăt laih anŭn hơdôm tơlơi anŭn ngă brơi kơ ƀing mơnuih mơnam hơdip hlŏng lar yơh. 64Samơ̆ hơmâo đơđa mơnuih amăng ƀing gih hơngah ƀu kiăng đaŏ kơnang ôh.” Yêsu laĭ tui anŭn yuakơ Ñu thâo krăn laih čơdơ̆ng mơ̆ng Ñu čơdơ̆ng pơtô kơ ƀing mơnuih jing ƀing ƀu đaŏ kơnang kơ Ñu ôh laih anŭn hlơi jing pô či pơblư̆ lui hĭ Ñu. 65Yêsu laĭ dơ̆ng tui anŭn, “Anŭn yơh jing tơhơnal tơlơi Kâo ruai kơ ƀing gih kơ tơlơi ƀu hơmâo hlơi pô dưi rai pơ Kâo ôh tơdah Ama Kâo ƀu ba rai laih ôh pô anŭn pơ Kâo.”
66Čơdơ̆ng mơ̆ng anŭn, hơmâo lu ƀing ding kơna Ñu wir đuaĭ hĭ laih anŭn ƀu kiăng đuaĭ tui Yêsu dơ̆ng tah.
67Yêsu tơña kơ ƀing pluh-dua čô ding kơna pơjao tui anai, “Hiư̆m ngă, ƀing gih ăt či lui hĭ Kâo mơ̆n hă?”
68Simôn Pêtrôs laĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, ƀing gơmơi ƀu hơmâo hlơi pô pơkŏn ôh kiăng kơ đuaĭ tui! Kơnơ̆ng hơjăn Ih yơh pơhiăp hơdôm boh hiăp kơ tơlơi kiăng kơ hơdip hlŏng lar. 69Ƀing gơmơi hơmâo đaŏ kơnang laih anŭn thâo krăn yơh kơ tơlơi Ih jing Pô Rơgoh Hiam Ơi Adai.”
70Giŏng anŭn, Yêsu pơhiăp tui anai, “Sĭt yơh, Kâo hơmâo ruah mă laih ƀing gih, jing Pluh-Dua čô ƀing ding kơna pơjao. Samơ̆ sa čô amăng ƀing gih tŭ git gai mơ̆ng yang sat.” 71Yêsu laĭ tui anŭn kiăng kơ kơčrâo kơ Yudas, ană Simôn Iskariôt, jing pô wơ̆t tơdah sa čô amăng ƀing Pluh-Dua, či pơblư̆ hĭ Ñu tơdơi anai.