14

Công sự lớn của Giô-na-than. – Lời thề của Sau-lơ

1 Một ngày kia, Giô-na-than, con trai của Sau-lơ, nói cùng gã trai trẻ vác binh khí mình, mà rằng: Hè, chúng ta hãy đi qua đồn quân Phi-li-tin, đóng ở phía bên kia. Nhưng người chẳng nói cho cha mình hay. 2 Bấy giờ, Sau-lơ ở tại đầu ranh Ghi-bê-a, dưới cây lựu của Mi-gơ-rôn, còn đạo quân theo người ước chừng sáu trăm người. 3 A-hi-gia, con trai A-hi-túp, anh của Y-ca-bốt, con trai Phi-nê-a, cháu Hê-li, mặc áo ê-phót, làm thầy tế lễ tại Si-lô. Dân sự không biết Giô-na-than đi. 4 Ở giữa đèo mà Giô-na-than gắng sức đi đặng đến đồn Phi-li-tin, có một răng đá ở bên nầy, và một răng ở bên kia; cái nầy gọi là Bốt-sết, còn cái kia gọi là Sê-nê. 5 Một cái răng đá mọc lên về phía bắc, đối ngang Mích-ma, còn cái kia ở tại phía nam, đối ngang Ghê-ba.
6 Giô-na-than nói cùng kẻ vác binh khí mình rằng: Hè, chúng ta hãy hãm đồn của những kẻ chẳng chịu cắt bì kia. Hoặc giả Đức Giê-hô-va sẽ hành sự vì chúng ta chăng; vì Đức Giê-hô-va khiến cho số ít người được thắng cũng như số đông người vậy. 7 Kẻ vác binh khí của người thưa rằng: Hãy làm điều ông ước, và đi nơi nào ông muốn; lòng ông dẫn ông đi đâu, tôi sẽ theo đó. 8 Giô-na-than tiếp: Nầy, chúng ta hãy đi đến những người ấy, tỏ mình ra cho chúng nó. 9 Nếu chúng nó nói: Hãy đợi chúng ta đến cùng các ngươi, thì chúng ta sẽ đứng lại chỗ mình và không lên đến cùng chúng nó. 10 Còn nếu chúng nó nói rằng: Hãy lên đến chúng ta; thì chúng ta sẽ lên; vì Đức Giê-hô-va đã phó chúng nó vào tay chúng ta: điều đó sẽ dùng làm dấu hiệu cho chúng ta.
11 Vậy, hai người đều đi lên đồn Phi-li-tin. Dân Phi-li-tin nói: Kìa, những người Hê-bơ-rơ ra từ hang đá là nơi chúng nó ẩn trốn kia. 12 Lính của đồn nói cùng Giô-na-than và kẻ vác binh khí mà rằng: Hãy đi đến chúng ta, chúng ta có chuyện tỏ cùng hai ngươi. Giô-na-than nói với kẻ vác binh khí mình rằng: Hãy theo ta, vì Đức Giê-hô-va đã phó chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên. 13 Giô-na-than dùng tay và chân leo lên, và kẻ cầm binh khí leo theo. Người Phi-li tin ngã trước mặt Giô-na-than, và kẻ vác binh khí giết chúng nó chết ở đằng sau người. 14 Trong trận thứ nhứt nầy, Giô-na-than và kẻ vác binh khí người giết chừng hai mươi người, trong một khoảng nửa công đất. 15 Sự hãi hùng tràn ra trong trại quân, trong đồng, và trong cả dân Phi-li-tin. Quân đồn và đảng cướp giựt đều bị kinh khủng; đất bị rúng động: ấy như một sự kinh khiếp của Đức Chúa Trời vậy.
16 Lính canh của Sau-lơ ở tại Ghi-bê-a trong xứ Bên-gia-min, đều thấy quân chúng Phi-li-tin tản lạc và chạy trốn lộn xộn. 17 Bấy giờ, Sau-lơ nói với quân lính ở cùng mình rằng: Hãy kiểm điểm xem ai là những người đã bỏ hàng ngũ chúng ta. Chúng kiểm điểm, thấy thiếu Giô-na-than và kẻ vác binh khí người. 18 Sau-lơ nói cùng A-hi-gia rằng: Hãy đem hòm của Đức Chúa Trời đến gần (vì trong ngày đó hòm của Đức Chúa Trời ở cùng dân Y-sơ-ra-ên). 19 Nhưng trong khi Sau-lơ nói với thầy tế lễ, thì tiếng ồn ào lại càng thêm lên trong trại quân Phi-li-tin. Sau-lơ nói cùng thầy tế lễ rằng: Hãy rút tay ngươi lại. 20 Đoạn, Sau-lơ và hết thảy quân lính ở cùng người hiệp lại, đi tới chốn chiến trường, kìa thấy người Phi-li-tin rút gươm giết lẫn nhau, hỗn loạn cực điểm. 21 Những người Hê-bơ-rơ đã từ lâu phục dân Phi-li-tin và theo họ trong trại quân, nay lại trở lòng hiệp với dân Y-sơ-ra-ên vẫn theo cùng Sau-lơ và Giô-na-than. 22 Lại khi hết thảy người Y-sơ-ra-ên đương ẩn trong núi Ép-ra-im, nghe dân Phi-li-tin chạy trốn, cũng rượt đuổi theo chúng nó mà đánh giặc. 23 Đức Giê-hô-va giải cứu Y-sơ-ra-ên trong ngày đó; cơn giặc tràn đến Bết-A-ven.
24 Cũng trong ngày đó, dân Y-sơ-ra-ên bị mệt đuối. Vả lại, Sau-lơ có thề cùng dân sự rằng: Đáng rủa sả người nào sẽ ăn vật thực gì trước khi chiều tối, tức trước khi ta báo thù những kẻ cừu địch ta! Vì vậy, cả dân sự đều cữ không ăn vật thực gì hết. 25 Song chúng dân đã đến trong một cái rừng có mật ong trên mặt đất. 26 Bấy giờ, dân sự đi vào trong rừng, thấy mật nầy chảy; chẳng ai dám chấm tay vào miệng, vì sợ lời thề. 27 Nhưng Giô-na-than không biết lời thề mà cha mình đã lập cùng dân sự, nên giơ đầu gậy mình cầm nơi tay chấm vào tàng mật ong, rồi lấy tay đem mật vào miệng, thì mắt người sáng ra. 28 Có người trong dân chúng cất tiếng nói rằng: Cha ông có thề cùng dân chúng rằng: Đáng rủa sả người nào ăn vật thực gì trong ngày nay. Vả, dân sự đều bị mệt đuối. 29 Giô-na-than đáp rằng: Cha ta làm rối cho xứ; hãy xem mắt ta đã sáng dường nào, vì cớ nếm chút mật nầy! 30 Ồ! chớ chi ngày nay dân sự đã ăn vật chiếm được của thù nghịch, thì sự thua bại dân Phi-li-tin đã lớn hơn biết bao!
31 Vậy ngày đó, dân Y-sơ-ra-ên đánh bại dân Phi-ti-tin từ Mích-ma cho đến A-gia-lôn. 32 Dân sự bị mệt đuối lắm, bèn xông vào của cướp, bắt chiên, bò, bò con, giết đi trên đất, rồi ăn thịt lộn với huyết. 33 Có người đến nói cùng Sau-lơ rằng: Kìa, dân sự phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, mà ăn thịt lộn với huyết. Người đáp: Ấy là một sự lỗi đạo! Hãy lập tức lăn một hòn đá lớn đến gần ta. 34 Lại tiếp rằng: Hãy đi khắp cơ binh rao rằng mỗi người phải dẫn đến ta chiên và bò mình, và giết đi tại đây. Rồi các người sẽ ăn thịt nó; như vậy các người không phạm tội cùng Đức Giê-hô-va mà ăn thịt lộn với huyết. Thế thì, trong đêm đó, mỗi người trong chúng dẫn súc vật mình có dưới tay, và giết nó trên hòn đá. 35 Sau-lơ bèn lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va; ấy là bàn thờ thứ nhứt mà người lập cho Đức Giê-hô-va.
36 Đoạn, Sau-lơ nói: Chúng ta hãy đi xuống đuổi theo dân Phi-li-tin trong khi ban đêm, cướp phá chúng nó cho đến sáng sớm, và chớ để sống một ai. Chúng thưa rằng: Hãy làm mọi điều vua lấy làm phải. Thầy tế lễ bèn nói: Chúng ta hãy đến gần Đức Chúa Trời. 37 Sau-lơ cầu vấn Đức Chúa Trời rằng: Tôi phải nên xuống đuổi theo dân Phi-li-tin chăng? Ngài sẽ phó chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên chăng? Song lần nầy Đức Chúa Trời chẳng đáp lại lời gì hết. 38 Đoạn, Sau-lơ bảo rằng: Hỡi các quan trưởng của dân sự, hết thảy hãy đến gần đây, xét tìm tội lỗi đã phạm trong ngày nay là sao. 39 Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng giải cứu Y-sơ-ra-ên, mà thề rằng kẻ đã phạm tội, dẫu chính là Giô-na-than, con trai ta, cũng phải chết đi! Trong cả dân sự chẳng có ai đáp lời người. 40 Người bèn nói cùng cả Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi hãy đứng bên nầy; ta và Giô-na-than, con trai ta, sẽ đứng bên kia. Dân sự thưa rằng: Hãy làm điều vua lấy làm phải. 41 Sau-lơ thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Ôi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy tỏ ra sự thật. Giô-na-than và Sau-lơ bị chỉ ra, còn dân sự thì vô can. 42 Sau-lơ nói: Hãy bắt thăm cho ta và Giô-na-than, con trai ta. 43 Giô-na-than bị chỉ ra. Sau-lơ nói cùng Giô-na-than rằng: Hãy tỏ cho ta biết điều ngươi đã làm. Giô-na-than thú thật rằng: Tôi có dùng đầu gậy tôi cầm nơi tay mà nếm chút mật ong; nầy tôi đây phải chết. 44 Sau-lơ nói: Hỡi Giô-na-than, nếu ngươi không chết, nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa rất nặng trên ta! 45 Nhưng dân sự đáp cùng Sau-lơ rằng: Uả! Giô-na-than, là người đã làm cho Y-sơ-ra-ên được đại thắng dường kia, phải chết sao? Điều đó chẳng nên! Chúng tôi chỉ sanh mạng của Đức Giê-hô-va mà thề rằng một sợi tóc trên đầu người sẽ chẳng rụng xuống đất; vì người ở cùng Đức Chúa Trời mà được thắng ngày nay. Như vậy, dân sự giải cứu Giô-na-than, và người khỏi bị xử tử. 46 Đoạn, Sau-lơ trở về, chẳng đuổi theo dân Phi-li-tin nữa; và dân Phi-li-tin đều trở về trong xứ mình.
47 Sau khi Sau-lơ đã cầm quyền nước Y-sơ-ra-ên, thì người giao chiến cùng kẻ thù nghịch mình tứ phía, tức cùng Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, các vua Xô-ba, và cùng dân Phi-li-tin; hễ người cử binh đến đâu, thì báo thù được đến đó. 48 Người tụ tập quân lính, đánh dân A-ma-léc, và giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay những kẻ cướp phá họ.
49 Các con trai của Sau-lơ là Giô-na-than, Gi-sê-vi, và Manh-ki-sua, người cũng có hai con gái; lớn, tên là Mê-ráp; nhỏ, tên là Mi-canh; 50 vợ của Sau-lơ tên là A-hi-nô-am, con gái của A-hi-mát. Tổng binh của đạo binh người là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, chú của Sau-lơ. 51 Kích, cha của Sau-lơ và Nê-rơ, cha của Áp-ne, là con trai của A-bi-ên. 52 Trọn đời Sau-lơ có sự tranh chiến dữ dội cùng dân Phi-li-tin; hễ khi Sau-lơ thấy người mạnh mẽ và bạo dạn, thì chiêu mộ người theo mình.

14

Yô-nathan Rachíl Cớp Tahan Tỗp Phi-li-tin

1Bữn muoi tangái Yô-nathan con samiang Salơ pai chóq samiang póng ca dững khễl yỗn án neq: “Hâi! Hái pỡq chu ntốq tỗp Phi-li-tin ỡt.”
 Ma Yô-nathan tỡ bữn atỡng yỗn mpoaq án dáng.
2Bo ki Salơ rlu nhưp nỡm ỗiq-tâi pỡ Mic-rôn, ma tỡ bữn yơng maléq tễ vil Ki-bĩah. Tahan ỡt cớp án mán tapoât culám náq, 3dếh Ahi-cha la cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ ca dững ê-phot. Ahi-cha la con samiang Ahi-túp a‑ễm I-khabot. Alới bar náq sễm ai la con samiang Phi-niat, châu Hê-li. Hê-li la cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ tâng vil Si-lô. Ma tỡ bữn noau dáng Yô-nathan khoiq loŏh tễ ntốq alới ỡt.
4Khân Yô-nathan ễ pỡq chu ntốq tỗp Phi-li-tin ỡt, án cóq pỡq rana hễp mpứng dĩ bar coah leh tarhar, bữn côl tamáu toâr cớp nhôiq ỡt bar coah rana. Côl tamáu muoi noau dŏq Bô-set; côl tamáu bar noau dŏq Sê-nê. 5Côl muoi ỡt coah angia pỡng ntốq hễp, choâng cớp raláp Mic-mat. Ma côl bar ỡt coah angia pưn choâng cớp vil Kê-ba.
6Yô-nathan pai chóq samiang pỡq cớp án neq: “Hâi! Hái pỡq mpứng dĩ bar coah côl tamáu ki, pỡq chu ntốq tỗp Phi-li-tin kĩaq, la cũai tỡ bữn yám noap Yiang Sursĩ. Cŏh lơ Yiang Sursĩ chuai hái cống bữn. Khân Ncháu chuai hái, lứq tỡ bữn noau têq catáng hái tỡ yỗn bữn riap, tam hái bĩq náq.”
7Samiang ki ta‑ỡi: “Anhia táq ntrớu la hếq pruam tê.”
8Yô-nathan pai: “O! Khân ngkíq, hái pỡq yỗn tỗp Phi-li-tin hữm. 9Khân tỗp alới ớn hái coan alới toâq ramóh, ki hái ỡt acoan tâng ntốq nâi voai. 10Ma khân tỗp alới ớn hái chỗn ramóh, ki hái chỗn, yuaq ranáq ki cỡt tếc yỗn hái dáng Yiang Sursĩ yỗn hái chíl riap tỗp alới.”
11Chơ Yô-nathan cớp samiang ki pỡq apáh yỗn tỗp Phi-li-tin hữm. Tỗp Phi-li-tin pai neq: “Nhêng tíh! Bữn cũai Hê-brơ loŏh tễ prúng alới tooq.”
12Tahan ki sabau chóq Yô-nathan cớp samiang ki neq: “Anhia chỗn chu nâi! Tỗp hếq bữn ranáq ễ táq ntỡng cớp anhia.”
 Yô-nathan atỡng samiang pỡq cớp án neq: “Mới puai cứq! Yiang Sursĩ khoiq yỗn cũai I-sarel riap tỗp alới chơ.”
13Chơ Yô-nathan poah chỗn tễ ntốq hễp ki, cớp samiang pỡq cớp án poah chỗn tapun án tê. Yô-nathan chíl tỗp Phi-li-tin, táq yỗn tỗp Phi-li-tin dớm. Chơ samiang pỡq ntun án cachĩt cũai Phi-li-tin ki. 14Tangái ki Yô-nathan cớp samiang póng ki bữn cachĩt mán bar chít náq tâng ntốq la‑a máh muoi liang sarái. Nâi la trỗ muoi alới bar náq cachĩt cũai Phi-li-tin. 15Tahan Phi-li-tin ỡt tâng dỗn cớp ỡt yáng tiah dỗn, nheq náq alới cỡt ngcŏh lứq. Dếh alới ca dốq pỡq pũr la ngcŏh lứq tê. Tỗ chác alới cangcoaih nheq. Cutễq la cỡt cacưt, cớp alới sâng ngcŏh luat ngư.

Tỗp Phi-li-tin Pê

16Tahan Salơ ca ỡt kĩaq tâng vil Ki-bĩah, cutễq Ben-yamin, bữn hữm tỗp Phi-li-tin lúh pỡq chu ức-cathức tháng. 17Ngkíq Salơ ớn tahan án neq: “Noap salĩq! Bữn noau tễ tỗp hái ma tỡ bữn ỡt bân nâi?”
 Toâq alới noap, alới tỡ bữn ramóh Yô-nathan cớp samiang dững khễl yỗn Yô-nathan.
18Salơ ớn cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ, ramứh Ahi-cha, neq: “Mới dững ê-phot chu nâi!” (Bo ki Ahi-cha cỡt cũai dững ê-phot choâng moat máh cũai proai I-sarel.)
19Ma bo Salơ ntôm táq ntỡng cớp cũai tễng rit sang, bữn sưong uot-uot lứq ễn tễ dỗn tỗp Phi-li-tin. Ngkíq Salơ pai neq: “Sanua tỡ loâp blớh noâng Yiang Sursĩ.”
20Chơ Salơ cớp tahan án loŏh pỡq chíl tỗp Phi-li-tin; ma tỗp Phi-li-tin rachíl ratuaq manoaq poâiq manoaq, cỡt ranáq ức-cathức tháng. 21Máh cũai Hê-brơ ỡt coah tỗp Phi-li-tin tễ nhũang cớp ỡt tâng dỗn tahan Phi-li-tin, sanua alới pĩen mứt tamái, chơ pruam ỡt loah coah puo Salơ cớp Yô-nathan ễn. 22Máh cũai I-sarel ỡt tooq tâng cuar cóh Ep-ra-im bữn sâng tỗp Phi-li-tin lúh pláh nheq; ngkíq tỗp alới toâq parỗm loah parnơi mut chíl tỗp Phi-li-tin tê. 23Alới rapuai tỗp Phi-li-tin toau luat vil Bet Aven. Ngkíq, Yiang Sursĩ chuai tỗp I-sarel bữn riap tâng tangái ki.

Toâq Moâm Rachíl

24Ma tâng tangái ki tahan tỗp I-sarel sâng ieuq lakéh lứq, cỗ panhieih púng. Yuaq Salơ patâp samoât lứq neq: “Cứq sễq ŏ́c pupap satooh pĩeiq cũai aléq ma cha dỗi tâng tangái nâi, nhũang cứq culáh dỡq chóq cũai par‑ũal cứq.”
 Ngkíq tỡ bữn noau khớn cha ntrớu tâng tangái ki.
25Tỗp alới mut tâng arưih cớp ramóh sóh khĩal sa‑ữi ntốq. 26Dũ nỡm aluang bữn moang sóh khĩal, ma tỡ bữn noau khớn ĩt cha, yuaq dũ náq cũai ngcŏh tễ santoiq Salơ khoiq pupap. 27Ma Yô-nathan tỡ bữn sâng santoiq mpoaq án pupap dŏq canứh cũai tahan. Ngkíq án ĩt ralỡng tóc sóh khĩal, cớp yễl dỡq khĩal tễ pôi ralỡng. Chơ bo ki toâp án bữn rêng loah. 28Ma bữn muoi noaq tahan atỡng án neq: “Tỗp hếq cỡt ieuq cỗ panhieih, yuaq mpoaq anhia khoiq pupap canứh tỗp hếq neq: ‘Sễq máh ŏ́c pupap satooh pĩeiq pỡ cũai aléq ma cha tâng tangái nâi.’”
29Yô-nathan ta‑ỡi: “Mpoaq cứq táq coat lứq yỗn máh tỗp hái. Nhêng nâi! Cứq bữn rêng loah toâp vớt cứq bữn yễl dỡq khĩal. 30Tâng tangái nâi, o lứq la hái cha sana hái pũr bữn tễ cũai par‑ũal, chơ bữn rêng achỗn. Chanchớm salĩq, khân tỗp hái ma táq ngkíq, hái bữn cachĩt tỗp Phi-li-tin sa‑ữi lứq ễn!”
31Tâng tangái ki tỗp I-sarel chíl riap tỗp Phi-li-tin. Alới rachíl sốt rana tễ vil Mic-mat toau toâq vil Ai-yalôn. Ma tữ toâq ntốq ki, tỗp alới cỡt ieuq lứq cỗ sâng panhieih. 32Ngkíq alới tál tháng pỡq pũr ĩt máh crơng tễ tỗp Phi-li-tin. Alới pũr ĩt cữu cớp ntroŏq, cớp alới kiac bân ntốq ki toâp. Chơ alới cha sâiq noâng bữn aham. 33Vớt ki bữn noau toâq atỡng Salơ neq: “Nhêng ki! Bữn cũai táq lôih chóq Yiang Sursĩ na alới cha sâiq noâng bữn aham.”
 Salơ cu‑ỗi casang neq: “Tỗp anhia tỡ bữn trĩh cứq! Cóq anhia apĩl cốc tamáu toâr, dững yỗn cứq pỡ nâi.”
34Chơ án pai ễn neq: “Pỡq atỡng dũ náq cũai yỗn alới dững ntroŏq cớp cữu, chơ kiac cớp cha pỡ ntốq nâi. Chỗi táq lôih chóq Yiang Sursĩ cỗ cha sâiq noâng bữn aham.”
 Ngkíq sadâu ki, dũ náq alới dững charán pỡq kiac pỡ ntốq ki.
35Salơ táq prông yỗn Yiang Sursĩ. Nâi la trỗ muoi Salơ táq prông sang.
36Chơ Salơ pai chóq tahan án neq: “Sadâu nâi hái pỡq chíl tỗp Phi-li-tin. Hái chíl tuoiq alới yỗn toau toâq tarưp, cớp cachĩt táh nheq tỗp alới.”
 Tỗp tahan ta‑ỡi: “Ơq! Táq puai nnŏ́q puo hữm o!”
 Ma cũai tễng rit sang pai neq: “Cóq hái blớh Yiang Sursĩ voai!”
37Ngkíq Salơ blớh Yiang Sursĩ neq: “Anhia ễq hếq pỡq chíl tỗp Phi-li-tin tỡ? Anhia ễ chuai hếq yỗn chíl riap tỗp alới tỡ?”
 Ma Yiang Sursĩ tỡ bữn ta‑ỡi án ntrớu tâng tangái ki.
38Chơ Salơ arô máh cũai sốt tỗp I-sarel cớp pai neq: “Anhia toâq pỡq nâi cớp blớh salĩq noau táq lôih ntrớu tâng tangái nâi. 39Cứq sễq parkhán nhơ ramứh Yiang Sursĩ, la Yiang tamoong mantái cớp chuai níc cũai I-sarel, cũai aléq ma táq lôih tâng tangái nâi, cóq án cuchĩt, tam án la Yô-nathan con samiang cứq.”
 Ma tỡ bữn noau khớn pai ntrớu.
40Chơ Salơ pai chóq tỗp alới neq: “Tỗp anhia dũ náq ỡt tayứng coah ki. Ma cứq cớp Yô-nathan con samiang cứq, ki hếq ỡt tayứng coah nâi.”
 Tỗp alới ta‑ỡi: “Pĩeiq! Táq puai nnŏ́q puo hữm o.”
41Salơ blớh Yiang Sursĩ neq: “Ơ Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel ơi! Cỗ nŏ́q anhia tỡ bữn ta‑ỡi cứq tâng tangái nâi? Ơ Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel ơi! Sễq anhia ta‑ỡi cứq na cốc tamáu miar khong anhia. Khân ranáq lôih cỡt tễ Yô-nathan tỡ la tỗ cứq toâp, sễq anhia ta‑ỡi na Urim. Ma khân ŏ́c lôih toâq tễ tỗp I-sarel, sễq anhia ta‑ỡi na Thumim.”
 Chơ Yiang Sursĩ ta‑ỡi na tamáu Urim pai Yô-nathan cớp Salơ toâp bữn lôih; ma tỗp I-sarel tỡ bữn lôih ntrớu.
42Chơ Salơ pai neq: “Sễq Yiang Sursĩ rasữq cứq cớp Yô-nathan con samiang cứq.”
 Chơ crơng séng satooh pĩeiq bân Yô-nathan.
43Salơ blớh Yô-nathan neq: “Mới táq lôih ntrớu?”
 Yô-nathan ta‑ỡi: “Cứq con yễl dỡq khĩal tễ pôi ralỡng. Cứq ỡt bân ntốq nâi toâp; cứq pruam ễ cuchĩt.”
44Salơ pai chóq con án neq: “Khân mới tỡ bữn cuchĩt tâng tangái nâi, sễq Yiang Sursĩ cachĩt táh chíq cứq.”
45Ma máh tahan pai chóq Salơ neq: “Pĩeiq tỡ Yô-nathan cuchĩt? Án la cũai ayông tỗp I-sarel yỗn chíl riap. Tỡ têq mŏ! Tỗp hếq sễq parkhán cớp Yiang Sursĩ ca tamoong mantái níc neq: Lứq samoât, muoi ntreh sóc tâng plỡ án la tỡ têq pứt. Ranáq án táq tâng tangái nâi Yiang Sursĩ toâp chuai.”
 Ngkíq tỗp tahan cưoc loah Yô-nathan, tỡ yỗn án cuchĩt.
46Vớt ki, Salơ tỡ bữn rapuai noâng tỗp Phi-li-tin, chơ alới píh chu loah cruang cutễq alới bữm.

Ruaih Loah Tễ Salơ Cỡt Sốt

47Toâq Salơ chỗn cỡt puo cũai I-sarel, án chíl máh cũai par‑ũal án, bữn tỗp neq: Mô-ap, Amôn, Ê-dôm, máh puo vil Sô-ba, cớp tỗp Phi-li-tin. Tâng dũ ntốq án pỡq rachíl la án chíl riap nheq. 48Án rachíl clŏ́q lứq, cớp án chíl riap tỗp A-maléc hỡ. Án chuai tỗp I-sarel yỗn vớt tễ cũai pũr alới.
49Máh con samiang Salơ bữn ramứh neq: Yô-nathan, It-vi, cớp Mal-ki Sũa. Con mansễm clúng án ramứh Mê-rap, cớp con ralŏ́h án ramứh Mi-cal. 50Lacuoi Salơ ramứh Ahi-nũam la con mansễm Ahi-mat. Cũai sốt tahan Salơ la sễm ai án bữm, ramứh Ap-nơ. Ap-nơ la con samiang Nơ, anhi Salơ. 51Ki-sơ la mpoaq Salơ, cớp Nơ la mpoaq Ap-nơ; cớp alới bar náq ki la con samiang Abiel.
52Nheq dỡi tamoong Salơ, án chíl níc tỗp Phi-li-tin. Toâq án ramóh manoaq samiang bán rêng cớp clŏ́q lứq, chơ án amut yỗn cỡt tahan án.