14

Công sự lớn của Giô-na-than. – Lời thề của Sau-lơ

1 Một ngày kia, Giô-na-than, con trai của Sau-lơ, nói cùng gã trai trẻ vác binh khí mình, mà rằng: Hè, chúng ta hãy đi qua đồn quân Phi-li-tin, đóng ở phía bên kia. Nhưng người chẳng nói cho cha mình hay. 2 Bấy giờ, Sau-lơ ở tại đầu ranh Ghi-bê-a, dưới cây lựu của Mi-gơ-rôn, còn đạo quân theo người ước chừng sáu trăm người. 3 A-hi-gia, con trai A-hi-túp, anh của Y-ca-bốt, con trai Phi-nê-a, cháu Hê-li, mặc áo ê-phót, làm thầy tế lễ tại Si-lô. Dân sự không biết Giô-na-than đi. 4 Ở giữa đèo mà Giô-na-than gắng sức đi đặng đến đồn Phi-li-tin, có một răng đá ở bên nầy, và một răng ở bên kia; cái nầy gọi là Bốt-sết, còn cái kia gọi là Sê-nê. 5 Một cái răng đá mọc lên về phía bắc, đối ngang Mích-ma, còn cái kia ở tại phía nam, đối ngang Ghê-ba.
6 Giô-na-than nói cùng kẻ vác binh khí mình rằng: Hè, chúng ta hãy hãm đồn của những kẻ chẳng chịu cắt bì kia. Hoặc giả Đức Giê-hô-va sẽ hành sự vì chúng ta chăng; vì Đức Giê-hô-va khiến cho số ít người được thắng cũng như số đông người vậy. 7 Kẻ vác binh khí của người thưa rằng: Hãy làm điều ông ước, và đi nơi nào ông muốn; lòng ông dẫn ông đi đâu, tôi sẽ theo đó. 8 Giô-na-than tiếp: Nầy, chúng ta hãy đi đến những người ấy, tỏ mình ra cho chúng nó. 9 Nếu chúng nó nói: Hãy đợi chúng ta đến cùng các ngươi, thì chúng ta sẽ đứng lại chỗ mình và không lên đến cùng chúng nó. 10 Còn nếu chúng nó nói rằng: Hãy lên đến chúng ta; thì chúng ta sẽ lên; vì Đức Giê-hô-va đã phó chúng nó vào tay chúng ta: điều đó sẽ dùng làm dấu hiệu cho chúng ta.
11 Vậy, hai người đều đi lên đồn Phi-li-tin. Dân Phi-li-tin nói: Kìa, những người Hê-bơ-rơ ra từ hang đá là nơi chúng nó ẩn trốn kia. 12 Lính của đồn nói cùng Giô-na-than và kẻ vác binh khí mà rằng: Hãy đi đến chúng ta, chúng ta có chuyện tỏ cùng hai ngươi. Giô-na-than nói với kẻ vác binh khí mình rằng: Hãy theo ta, vì Đức Giê-hô-va đã phó chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên. 13 Giô-na-than dùng tay và chân leo lên, và kẻ cầm binh khí leo theo. Người Phi-li tin ngã trước mặt Giô-na-than, và kẻ vác binh khí giết chúng nó chết ở đằng sau người. 14 Trong trận thứ nhứt nầy, Giô-na-than và kẻ vác binh khí người giết chừng hai mươi người, trong một khoảng nửa công đất. 15 Sự hãi hùng tràn ra trong trại quân, trong đồng, và trong cả dân Phi-li-tin. Quân đồn và đảng cướp giựt đều bị kinh khủng; đất bị rúng động: ấy như một sự kinh khiếp của Đức Chúa Trời vậy.
16 Lính canh của Sau-lơ ở tại Ghi-bê-a trong xứ Bên-gia-min, đều thấy quân chúng Phi-li-tin tản lạc và chạy trốn lộn xộn. 17 Bấy giờ, Sau-lơ nói với quân lính ở cùng mình rằng: Hãy kiểm điểm xem ai là những người đã bỏ hàng ngũ chúng ta. Chúng kiểm điểm, thấy thiếu Giô-na-than và kẻ vác binh khí người. 18 Sau-lơ nói cùng A-hi-gia rằng: Hãy đem hòm của Đức Chúa Trời đến gần (vì trong ngày đó hòm của Đức Chúa Trời ở cùng dân Y-sơ-ra-ên). 19 Nhưng trong khi Sau-lơ nói với thầy tế lễ, thì tiếng ồn ào lại càng thêm lên trong trại quân Phi-li-tin. Sau-lơ nói cùng thầy tế lễ rằng: Hãy rút tay ngươi lại. 20 Đoạn, Sau-lơ và hết thảy quân lính ở cùng người hiệp lại, đi tới chốn chiến trường, kìa thấy người Phi-li-tin rút gươm giết lẫn nhau, hỗn loạn cực điểm. 21 Những người Hê-bơ-rơ đã từ lâu phục dân Phi-li-tin và theo họ trong trại quân, nay lại trở lòng hiệp với dân Y-sơ-ra-ên vẫn theo cùng Sau-lơ và Giô-na-than. 22 Lại khi hết thảy người Y-sơ-ra-ên đương ẩn trong núi Ép-ra-im, nghe dân Phi-li-tin chạy trốn, cũng rượt đuổi theo chúng nó mà đánh giặc. 23 Đức Giê-hô-va giải cứu Y-sơ-ra-ên trong ngày đó; cơn giặc tràn đến Bết-A-ven.
24 Cũng trong ngày đó, dân Y-sơ-ra-ên bị mệt đuối. Vả lại, Sau-lơ có thề cùng dân sự rằng: Đáng rủa sả người nào sẽ ăn vật thực gì trước khi chiều tối, tức trước khi ta báo thù những kẻ cừu địch ta! Vì vậy, cả dân sự đều cữ không ăn vật thực gì hết. 25 Song chúng dân đã đến trong một cái rừng có mật ong trên mặt đất. 26 Bấy giờ, dân sự đi vào trong rừng, thấy mật nầy chảy; chẳng ai dám chấm tay vào miệng, vì sợ lời thề. 27 Nhưng Giô-na-than không biết lời thề mà cha mình đã lập cùng dân sự, nên giơ đầu gậy mình cầm nơi tay chấm vào tàng mật ong, rồi lấy tay đem mật vào miệng, thì mắt người sáng ra. 28 Có người trong dân chúng cất tiếng nói rằng: Cha ông có thề cùng dân chúng rằng: Đáng rủa sả người nào ăn vật thực gì trong ngày nay. Vả, dân sự đều bị mệt đuối. 29 Giô-na-than đáp rằng: Cha ta làm rối cho xứ; hãy xem mắt ta đã sáng dường nào, vì cớ nếm chút mật nầy! 30 Ồ! chớ chi ngày nay dân sự đã ăn vật chiếm được của thù nghịch, thì sự thua bại dân Phi-li-tin đã lớn hơn biết bao!
31 Vậy ngày đó, dân Y-sơ-ra-ên đánh bại dân Phi-ti-tin từ Mích-ma cho đến A-gia-lôn. 32 Dân sự bị mệt đuối lắm, bèn xông vào của cướp, bắt chiên, bò, bò con, giết đi trên đất, rồi ăn thịt lộn với huyết. 33 Có người đến nói cùng Sau-lơ rằng: Kìa, dân sự phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, mà ăn thịt lộn với huyết. Người đáp: Ấy là một sự lỗi đạo! Hãy lập tức lăn một hòn đá lớn đến gần ta. 34 Lại tiếp rằng: Hãy đi khắp cơ binh rao rằng mỗi người phải dẫn đến ta chiên và bò mình, và giết đi tại đây. Rồi các người sẽ ăn thịt nó; như vậy các người không phạm tội cùng Đức Giê-hô-va mà ăn thịt lộn với huyết. Thế thì, trong đêm đó, mỗi người trong chúng dẫn súc vật mình có dưới tay, và giết nó trên hòn đá. 35 Sau-lơ bèn lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va; ấy là bàn thờ thứ nhứt mà người lập cho Đức Giê-hô-va.
36 Đoạn, Sau-lơ nói: Chúng ta hãy đi xuống đuổi theo dân Phi-li-tin trong khi ban đêm, cướp phá chúng nó cho đến sáng sớm, và chớ để sống một ai. Chúng thưa rằng: Hãy làm mọi điều vua lấy làm phải. Thầy tế lễ bèn nói: Chúng ta hãy đến gần Đức Chúa Trời. 37 Sau-lơ cầu vấn Đức Chúa Trời rằng: Tôi phải nên xuống đuổi theo dân Phi-li-tin chăng? Ngài sẽ phó chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên chăng? Song lần nầy Đức Chúa Trời chẳng đáp lại lời gì hết. 38 Đoạn, Sau-lơ bảo rằng: Hỡi các quan trưởng của dân sự, hết thảy hãy đến gần đây, xét tìm tội lỗi đã phạm trong ngày nay là sao. 39 Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng giải cứu Y-sơ-ra-ên, mà thề rằng kẻ đã phạm tội, dẫu chính là Giô-na-than, con trai ta, cũng phải chết đi! Trong cả dân sự chẳng có ai đáp lời người. 40 Người bèn nói cùng cả Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi hãy đứng bên nầy; ta và Giô-na-than, con trai ta, sẽ đứng bên kia. Dân sự thưa rằng: Hãy làm điều vua lấy làm phải. 41 Sau-lơ thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Ôi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy tỏ ra sự thật. Giô-na-than và Sau-lơ bị chỉ ra, còn dân sự thì vô can. 42 Sau-lơ nói: Hãy bắt thăm cho ta và Giô-na-than, con trai ta. 43 Giô-na-than bị chỉ ra. Sau-lơ nói cùng Giô-na-than rằng: Hãy tỏ cho ta biết điều ngươi đã làm. Giô-na-than thú thật rằng: Tôi có dùng đầu gậy tôi cầm nơi tay mà nếm chút mật ong; nầy tôi đây phải chết. 44 Sau-lơ nói: Hỡi Giô-na-than, nếu ngươi không chết, nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa rất nặng trên ta! 45 Nhưng dân sự đáp cùng Sau-lơ rằng: Uả! Giô-na-than, là người đã làm cho Y-sơ-ra-ên được đại thắng dường kia, phải chết sao? Điều đó chẳng nên! Chúng tôi chỉ sanh mạng của Đức Giê-hô-va mà thề rằng một sợi tóc trên đầu người sẽ chẳng rụng xuống đất; vì người ở cùng Đức Chúa Trời mà được thắng ngày nay. Như vậy, dân sự giải cứu Giô-na-than, và người khỏi bị xử tử. 46 Đoạn, Sau-lơ trở về, chẳng đuổi theo dân Phi-li-tin nữa; và dân Phi-li-tin đều trở về trong xứ mình.
47 Sau khi Sau-lơ đã cầm quyền nước Y-sơ-ra-ên, thì người giao chiến cùng kẻ thù nghịch mình tứ phía, tức cùng Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, các vua Xô-ba, và cùng dân Phi-li-tin; hễ người cử binh đến đâu, thì báo thù được đến đó. 48 Người tụ tập quân lính, đánh dân A-ma-léc, và giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay những kẻ cướp phá họ.
49 Các con trai của Sau-lơ là Giô-na-than, Gi-sê-vi, và Manh-ki-sua, người cũng có hai con gái; lớn, tên là Mê-ráp; nhỏ, tên là Mi-canh; 50 vợ của Sau-lơ tên là A-hi-nô-am, con gái của A-hi-mát. Tổng binh của đạo binh người là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, chú của Sau-lơ. 51 Kích, cha của Sau-lơ và Nê-rơ, cha của Áp-ne, là con trai của A-bi-ên. 52 Trọn đời Sau-lơ có sự tranh chiến dữ dội cùng dân Phi-li-tin; hễ khi Sau-lơ thấy người mạnh mẽ và bạo dạn, thì chiêu mộ người theo mình.

14

1Hơmâo sa hrơi, Yônathan ană đah rơkơi Saul, pơhiăp hăng pô tơdăm jing pô djă̱ brơi gơnam blah ñu tui anai, “Bơ ta găn bĕ jơlan gơniă anŭn hăng nao pơ gah adih kơđông ƀing Philistia.” Samơ̆ ñu ƀu laĭ pơthâo hăng ama ñu ôh.
2Saul hlak dŏ ƀơi guai anih Gibeah gah yŭ phŭn kơyâo pumƀre amăng anih Migrôn. Hrŏm hăng ñu hơmâo năm-rơtuh čô tơhan; 3amăng ƀing gơñu hơmâo Ahiyah jing pô băk sa blah êphôd. Ñu jing ană đah rơkơi Ahitub, adơi Ikhabôd. Ahitub jing ană đah rơkơi Phinehas, Phinehas jing ană đah rơkơi Êli jing khua ngă yang Yahweh pơ anih Silôh. Ƀu hơmâo hlơi pô thâo ôh tơdang Yônathan tơbiă đuaĭ hĭ.
4Ƀơi rĭm bơnăh jơlan Yônathan kiăng găn nao truh pơ kơđông ƀing Philistia anŭn le̱ng kơ hơmâo hơ̆ng dơ̆ng čư̆; hơ̆ng čư̆ gah anai arăng iâu Bozez laih anŭn hơ̆ng čư̆ gah adih arăng iâu Seneh. 5Hơ̆ng čư̆ anŭn dŏ pơ gah dư̱r anăp nao pơ anih Mikmas laih anŭn hơ̆ng čư̆ anai anăp nao pơ gah thu̱ng kơ anih Gaba yơh.
6Yônathan laĭ hăng pô tơdăm glăm ba gơnam blah ñu anŭn tui anai, “Bơ ta nao bĕ pơ kơđông ƀing ƀu khăt klĭ anŭn. Năng ai Yahweh či blah pơala brơi kơ ƀing ta yơh. Tơdah ƀing ta jing ƀing mơnuih ƀu lu ôh samơ̆ kơnơ̆ng ƀiă đôč, sĭt ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi pơgăn hĭ Yahweh mơ̆ng tơlơi kiăng pơklaih.”
7Pô glăm gơnam blah ñu anŭn laĭ tui anai, “Ngă tui bĕ abih bang tơlơi ih hơmâo pơmĭn laih. Nao bĕ, kâo nao hrŏm ih hăng abih jua bơngăt kâo yơh.”
8Yônathan laĭ, “Tui anŭn, rai bĕ; ƀing ta či găn anăp nao pơ ƀing mơnuih adih laih anŭn brơi ƀing gơñu ƀuh ƀing ta. 9Tơdah ƀing gơñu laĭ kơ ƀing ta tui anai, ‘Dŏ tơguan bĕ pơ anŭn tơl ƀing gơmơi nao pơ ƀing gih,’ ƀing ta či dŏ glaĭ pơ anih anŭn ƀu đĭ nao pơ ƀing gơñu ôh. 10Samơ̆ tơdah ƀing gơñu laĭ, ‘Đĭ rai pơ ƀing gơmơi bĕ,’ tui anŭn ƀing ta či đĭ nao yơh, yuakơ anŭn či jing gru kơnăl kơ ƀing ta, jing tơlơi Yahweh hơmâo jao hĭ laih ƀing gơñu amăng tơngan tơlơi dưi ta.”
11Tui anŭn, dua gơñu tơbiă nao pơ kơđông Philistia kiăng kơ ƀing arăng ƀuh ƀing gơñu. Ƀing Philistia laĭ tui anai, “Lăng adih! Ƀing Hêbrơ rui tơbiă mơ̆ng amăng luh jing anih ƀing gơñu hlak dŏ kơdŏp adih.” 12Ƀing mơnuih amăng kơđông anŭn pơhiăp kraih pơ Yônathan laih anŭn hăng pô glăm gơnam blah ñu anŭn tui anai, “Đĭ rai pơ ƀing gơmơi bĕ, laih anŭn ƀing gơmơi či pơtô kơ ƀing gih sa tơlơi hrăm kiăng kơ thâo.”
 Tui anŭn, Yônathan laĭ hăng pô nao hrŏm hăng ñu tui anai, “Đĭ nao tui kâo bĕ; Yahweh hơmâo jao brơi laih ƀing gơñu amăng tơngan ƀing Israel.”
13Yônathan đĭ nao, yua tơkai tơngan ñu, hrŏm hăng pô glăm gơnam blah đuaĭ tui gah rŏng ñu. Yônathan kơsung blah ƀing Philistia gah anăp ñu laih anŭn pô glăm gơnam blah ñu đuaĭ tui pơdjai hĭ ƀing Philistia anŭn mơ̆ng gah rŏng ñu yơh. 14Amăng tơlơi kơsung blah blung hlâo, Yônathan hăng pô glăm gơnam blah ñu pơdjai hĭ duapluh čô amăng sa boh anih rơhaih kơ sa-rơtuh plă̱ tơkai.

Ƀing Israel Kiaŏ Blah Ƀing Philistia

15Giŏng anŭn, tơlơi huĭ hyưt truh ƀơi abih bang ƀing ling tơhan Philistia jing ƀing dŏ amăng anih jưh wơ̆t hăng ƀing dŏ amăng đang hơma mơ̆n, ƀơi ƀing dŏ amăng khul kơđông laih anŭn ƀơi ƀing tơpul pơrăm pơrai mơ̆n; lŏn pơpư̆ pơgơi. Ơi Adai yơh brơi rai kơ tơlơi huĭ hyưt anŭn.
16Ƀing mơnuih Saul pơkiaŏ nao kiăng kơ krăp lăng ƀing Philistia brơi kơ ñu lăng nao amăng plei Gibeah amăng guai lŏn kơnung djuai Benyamin, laih anŭn ƀuh ƀing ling tơhan Philistia čơlah đuaĭ nao rai amăng djŏp anih. 17Tui anŭn, Saul pơhiăp hăng ƀing mơnuih nao hrŏm hăng ñu tui anai, “Kơsem glaĭ lăng bĕ kiăng kơ thâo hlơi pô tơbiă đuaĭ hĭ laih mơ̆ng ƀing ta.” Tơdang ƀing gơñu kơsem glaĭ, ƀing gơñu ƀu ƀuh ôh Yônathan wơ̆t hăng pô glăm gơnam blah ñu pơ anŭn.
18Saul laĭ kơ Ahiyah, “Ba rai hip Ơi Adai bĕ.” Hlak anŭn, hip anŭn ăt dŏ hrŏm hăng ƀing Israel mơ̆n. 19Tơdang Saul hlak pơhiăp hăng khua ngă yang, tơlơi ngañ bañ amăng anih jưh ƀing Philistia jai prŏng tui. Tui anŭn, Saul laĭ kơ khua ngă yang, “Hơñăk glaĭ tơngan ih bĕ. Anăm hơduah tơña Yahweh dơ̆ng tah!”
20Giŏng anŭn, Saul laih anŭn abih bang ƀing tơhan ñu pơƀut glaĭ đuaĭ nao pơ tơlơi pơblah yơh. Ƀing gơñu ƀuh abih bang ƀing Philistia dŏ amăng tơlơi rŭng răng, pơkŏh tơdruă gơñu hăng khul đao gưm gơñu pô yơh. 21Hlâo kơ anŭn, hơmâo đơđa ƀing Hêbrơ nao hrŏm hăng ƀing Philistia laih anŭn hơmâo đĭ nao hrŏm laih pơ anih jưh ƀing Philistia, samơ̆ ră anai wơ̆t glaĭ pơ ƀing Israel nao hrŏm hăng Saul laih anŭn hăng Yônathan yơh. 22Tơdang abih bang ƀing Israel, jing ƀing dŏ kơdŏp amăng tring bŏl čư̆ Ephraim, hơmư̆ ƀing Philistia hlak đuaĭ kơdŏp, ƀing gơñu mơ̆n kiaŏ blah ƀing Philistia kơtang biă mă. 23Tui anŭn yơh, Yahweh pơklaih hĭ ƀing Israel amăng hrơi anŭn laih anŭn tơlơi pơblah anŭn lar truh pơ gah adih anih Bêt-Awen.

Yônathan Ƀơ̆ng Ia Hơni

24Amăng hrơi anŭn ƀing Israel dŏ amăng tơlơi gleh tơnap biă mă yuakơ Saul hơmâo brơi laih ƀing Israel ƀuăn rơ̆ng tui anai, “Hơtŏm păh yơh kơ ƀing hlơi pô ƀơ̆ng huă hlâo kơ hrơi klăm truh, jing hlâo kơ kâo hơmâo rŭ nua laih kâo pô ƀơi ƀing rŏh ayăt!” Tui anŭn, ƀu hơmâo ôh hlơi pô amăng ƀing ling tơhan ƀơ̆ng huă. 25Abih bang ƀing ling tơhan mŭt amăng glai glo laih anŭn hơmâo hơni ƀơi lŏn. 26Tơdang ƀing gơñu mŭt amăng glai, ƀing gơñu ƀuh ia hơni rô tơbiă, samơ̆ ƀu hơmâo hlơi pô ôh pioh tơngan ƀơi amăng bah ñu yuakơ huĭ kơ tơlơi ƀuăn rơ̆ng. 27Samơ̆ Yônathan ƀu hơmư̆ ôh kơ tơlơi ama ñu hơmâo brơi laih kơ ƀing tơhan anŭn ƀuăn rơ̆ng, tui anŭn ñu yơr nao gai jra ƀơi tơngan ñu čut mŭt ƀơi sêng hơni. Ñu yơr tơngan ñu nao pơ amăng bah ñu ƀơ̆ng tui anŭn mơta ñu rơđah yơh. 28Giŏng anŭn, sa čô tơhan laĭ kơ ñu tui anai, “Ama ih brơi ƀing ling tơhan ƀuăn rơ̆ng tui anai, ‘Hơtŏm păh yơh kơ hlơi pô ƀơ̆ng huă amăng hrơi anai!’ Yuakơ anŭn yơh ƀing ling tơhan gleh rơmơ̆n biă mă.”
29Yônathan laĭ glaĭ tui anai, “Ama kâo hơmâo pơrŭng laih lŏn čar. Lăng anai, mơta kâo rơđah yơh tơdang kâo ƀơ̆ng ƀiă ia hơni. 30Hiam hloh yơh tơdah ƀing ling tơhan ƀơ̆ng huă hrơi anai mơ̆ng gơnam ƀơ̆ng sua mă mơ̆ng ƀing rŏh ayăt. Sĭt yơh, tơlơi blah pơrai hĭ ƀing Philistia ƀu djơ̆ jing prŏng prin hloh ôh hă?”
31Amăng hrơi anŭn, tơdơi kơ ƀing Israel hơmâo pơrai hĭ laih ƀing Philistia čơdơ̆ng mơ̆ng anih Mikmas truh pơ anih Aiyalôn, ƀing gơñu tơdu rơmơ̆n biă mă yơh. 32Ƀing gơñu blŭng nao pơ gơnam sua mă; gơñu mă triu, rơmô laih anŭn ană rơmô, pơdjai hĭ ƀơi lŏn laih anŭn ƀơ̆ng añăm hrŏm hăng drah. 33Giŏng anŭn, hơmâo mơnuih nao laĭ pơthâo kơ Saul tui anai, “Lăng adih, ƀing ling tơhan ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh yơh tơdang ƀing gơñu ƀơ̆ng añăm hơmâo hrŏm hăng drah.”
 Saul laĭ tui anai, “Ƀing gih hơmâo hơngah hĭ laih tơlơi đaŏ kơnang gih. Tơglŭng rai bĕ boh pơtâo prŏng rai pơ anai mơtam.”
34Giŏng anŭn, ñu pơđar dơ̆ng tui anai, “Đuaĭ nao bĕ pơ ƀing ling tơhan hăng laĭ pơthâo tui anai, ‘Rĭm čô amăng ƀing gih ba rai bĕ kơ kâo rơmô laih anŭn triu gih; giŏng anŭn pơdjai hĭ bĕ hlô mơnơ̆ng pơ anai laih anŭn ƀơ̆ng añăm gơñu. Anăm ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh ôh amăng tơlơi ƀơ̆ng añăm hrŏm hăng drah anŭn.’ ”
 Tui anŭn, rĭm čô ba rai rơmô ñu mlam anŭn laih anŭn pơdjai hĭ pơ anŭn.
35Giŏng anŭn, Saul pơdơ̆ng đĭ sa boh kơnưl ngă yang kơ Yahweh; anai jing tal blung hlâo ñu hơmâo pơgiŏng hĭ tơlơi anŭn.
36Saul laĭ tui anai, “Bơ ta kiaŏ tui bĕ ƀing Philistia tơdang mlam laih anŭn sua mă ƀing gơñu tơl truh mơguah, laih anŭn anăm lui brơi ôh sa čô amăng ƀing gơñu dŏ hơdip.”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Ngă bĕ tui hăng tơlơi ih lăng jing djơ̆.”
 Samơ̆ khua ngă yang laĭ tui anai, “Bơ ta tơña hơduah bĕ tơlơi Ơi Adai kiăng pơ anai.”
37Tui anŭn, Saul tơña kơ Ơi Adai tui anai, “Kâo či dưi kiaŏ tui ƀing Philistia mơ̆? Ih či jao lui hĭ ƀing gơñu amăng tơngan ƀing Israel mơ̆?” Samơ̆ Ơi Adai ƀu laĭ glaĭ tơlơi hơget ôh kơ ñu amăng hrơi anŭn.
38Hơnŭn yơh Saul laĭ tui anai, “Rai pơ anai bĕ, Ơ abih bang ƀing gih jing ƀing khua djă̱ akŏ ƀing ling tơhan, laih anŭn brơi kơ ƀing ta hơduah sem bĕ hơget tơlơi soh ƀing ta hơmâo ngă laih hrơi anai. 39Sĭt yơh kâo ƀuăn hăng tơlơi hơdip Yahweh jing Pô pơklaih hĭ ƀing Israel, wơ̆t tơdah tơlơi soh anai tơbiă rai mơ̆ng ană đah rơkơi kâo Yônathan, ñu ăt khŏm djai mơ̆n.” Samơ̆ ƀu hơmâo hlơi pô amăng ƀing ling tơhan pơhiăp hơget gĕt ôh.
40Giŏng anŭn, Saul laĭ hăng abih bang ƀing Israel tui anai, “Ƀing gih dŏ dơ̆ng pơ anŭn; kâo laih anŭn ană kâo Yônathan či dŏ dơ̆ng pơ anai.”
 Ƀing ană plei laĭ tui anai, “Ngă bĕ tui hăng tơlơi ih pơmĭn jing djơ̆.”
41Giŏng anŭn, Saul iâu laĭ tui anai, “Ơ Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel ăh, yua hơget Ih ƀu laĭ glaĭ ôh kơ kâo hrơi anai lĕ? Tơdah tơlơi soh anai dŏ ƀơi kâo ƀôdah ƀơi ană kâo Yônathan, brơi Urim bĕ; samơ̆ tơdah tơlơi soh anai dŏ amăng ƀing Israel, brơi Thummim bĕ.” Tui anŭn, Yônathan hăng Saul či kơčrâo tơbiă yua mơ̆ng tơlơi ngă čram yơh, bơ kơ ƀing ling tơhan ƀu hơmâo tơlơi hơget gĕt ôh. 42Saul pơđar tui anai, “Ngă bĕ čram tŏng krah kâo hăng ană kâo Yônathan anai.” Čram anŭn lê̆ djơ̆ kơ Yônathan yơh.
43Giŏng anŭn, Saul tơña kơ Yônathan tui anai, “Ruai bĕ kơ kâo hơget tơlơi ih hơmâo ngă laih.”
 Tui anŭn, Yônathan ruai kơ ama ñu tui anai, “Kâo ƀơ̆ng laih ƀiă ia hơni hăng rơjŭng gai jra kâo. Ră anai, kâo khŏm djai hă?”
44Saul laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Yônathan ăh, rơkâo kơ Ơi Adai brơi tơlơi truh kơ kâo, wơ̆t tơdah kơtang hloh dơ̆ng mơ̆n tơdah ih ƀu djai hĭ ôh.”
45Samơ̆ ƀing ling tơhan laĭ kơ Saul tui anai, “Yônathan khŏm djai hă, yuakơ ñu yơh hơmâo ba rai laih tơlơi pơklaih prŏng anai amăng Israel? Ƀu či jing hrup hăng anŭn ôh! Kar hăng Yahweh ăt hơdip, ƀu hơmâo ôh sa ară ƀŭk mơ̆ng akŏ ñu či lê̆ trŭn ƀơi lŏn yuakơ ñu hơmâo ngă laih tơlơi anŭn hrơi anai hăng tơlơi Ơi Adai djru yơh.” Tui anŭn, ƀing ling tơhan pơklaih hĭ Yônathan, tui anŭn ñu ƀu tŭ mă tơlơi djai ôh.
46Giŏng anŭn, Saul pơdơi hĭ, ƀu kiaŏ tui blah ƀing Philistia dơ̆ng tah laih anŭn ƀing gơñu wơ̆t glaĭ pơ anih lŏn gơñu pô yơh.
47Tơdơi kơ Saul hơmâo git gai wai lăng ƀing Israel, ñu pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing rŏh ayăt gơñu mơ̆ng rĭm akiăng yơh hăng ƀing anai: Ƀing Môab, ƀing Ammôn, ƀing Edôm, ƀing pơtao Zôbah laih anŭn ƀing Philistia. Pơ anih pă ñu wir nao, ñu kiaŏ blah dưi hĭ kơ ƀing rŏh anŭn yơh. 48Ñu blah khĭn kơtang laih anŭn dưi hĭ kơ ƀing Amalek, pơklaih hĭ ƀing Israel mơ̆ng tơngan ƀing hlơi hơmâo blah mă laih ƀing gơñu.

Sang Anŏ Saul

49Ƀing ană đah rơkơi Saul jing Yônathan, Iswi laih anŭn Malki-Sua. Anăn ană kơčoa đah kơmơi ñu jing HʼMerab laih anŭn pô adơi ñu jing HʼMikal. 50Bơnai ñu anăn HʼAhinôam, jing ană đah kơmơi Ahimaaz. Anăn pô khua git gai tơhan Saul jing Abner ană đah rơkơi Nêr, laih anŭn Nêr jing met Saul. 51Kis jing ama Saul laih anŭn Nêr ama Abner; abih dua Kis hăng Nêr jing ƀing ană đah rơkơi Abiêl.
52Amăng abih tơlơi hơdip Saul, hơmâo tơlơi pơblah kơtang kơtĭt hăng ƀing Philistia; tơdang Saul ƀuh hlơi pô khĭn laih anŭn kơtang, ñu ruah mă pô anŭn jing pô mă bruă kơ ñu yơh.