14

Công sự lớn của Giô-na-than. – Lời thề của Sau-lơ

1 Một ngày kia, Giô-na-than, con trai của Sau-lơ, nói cùng gã trai trẻ vác binh khí mình, mà rằng: Hè, chúng ta hãy đi qua đồn quân Phi-li-tin, đóng ở phía bên kia. Nhưng người chẳng nói cho cha mình hay. 2 Bấy giờ, Sau-lơ ở tại đầu ranh Ghi-bê-a, dưới cây lựu của Mi-gơ-rôn, còn đạo quân theo người ước chừng sáu trăm người. 3 A-hi-gia, con trai A-hi-túp, anh của Y-ca-bốt, con trai Phi-nê-a, cháu Hê-li, mặc áo ê-phót, làm thầy tế lễ tại Si-lô. Dân sự không biết Giô-na-than đi. 4 Ở giữa đèo mà Giô-na-than gắng sức đi đặng đến đồn Phi-li-tin, có một răng đá ở bên nầy, và một răng ở bên kia; cái nầy gọi là Bốt-sết, còn cái kia gọi là Sê-nê. 5 Một cái răng đá mọc lên về phía bắc, đối ngang Mích-ma, còn cái kia ở tại phía nam, đối ngang Ghê-ba.
6 Giô-na-than nói cùng kẻ vác binh khí mình rằng: Hè, chúng ta hãy hãm đồn của những kẻ chẳng chịu cắt bì kia. Hoặc giả Đức Giê-hô-va sẽ hành sự vì chúng ta chăng; vì Đức Giê-hô-va khiến cho số ít người được thắng cũng như số đông người vậy. 7 Kẻ vác binh khí của người thưa rằng: Hãy làm điều ông ước, và đi nơi nào ông muốn; lòng ông dẫn ông đi đâu, tôi sẽ theo đó. 8 Giô-na-than tiếp: Nầy, chúng ta hãy đi đến những người ấy, tỏ mình ra cho chúng nó. 9 Nếu chúng nó nói: Hãy đợi chúng ta đến cùng các ngươi, thì chúng ta sẽ đứng lại chỗ mình và không lên đến cùng chúng nó. 10 Còn nếu chúng nó nói rằng: Hãy lên đến chúng ta; thì chúng ta sẽ lên; vì Đức Giê-hô-va đã phó chúng nó vào tay chúng ta: điều đó sẽ dùng làm dấu hiệu cho chúng ta.
11 Vậy, hai người đều đi lên đồn Phi-li-tin. Dân Phi-li-tin nói: Kìa, những người Hê-bơ-rơ ra từ hang đá là nơi chúng nó ẩn trốn kia. 12 Lính của đồn nói cùng Giô-na-than và kẻ vác binh khí mà rằng: Hãy đi đến chúng ta, chúng ta có chuyện tỏ cùng hai ngươi. Giô-na-than nói với kẻ vác binh khí mình rằng: Hãy theo ta, vì Đức Giê-hô-va đã phó chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên. 13 Giô-na-than dùng tay và chân leo lên, và kẻ cầm binh khí leo theo. Người Phi-li tin ngã trước mặt Giô-na-than, và kẻ vác binh khí giết chúng nó chết ở đằng sau người. 14 Trong trận thứ nhứt nầy, Giô-na-than và kẻ vác binh khí người giết chừng hai mươi người, trong một khoảng nửa công đất. 15 Sự hãi hùng tràn ra trong trại quân, trong đồng, và trong cả dân Phi-li-tin. Quân đồn và đảng cướp giựt đều bị kinh khủng; đất bị rúng động: ấy như một sự kinh khiếp của Đức Chúa Trời vậy.
16 Lính canh của Sau-lơ ở tại Ghi-bê-a trong xứ Bên-gia-min, đều thấy quân chúng Phi-li-tin tản lạc và chạy trốn lộn xộn. 17 Bấy giờ, Sau-lơ nói với quân lính ở cùng mình rằng: Hãy kiểm điểm xem ai là những người đã bỏ hàng ngũ chúng ta. Chúng kiểm điểm, thấy thiếu Giô-na-than và kẻ vác binh khí người. 18 Sau-lơ nói cùng A-hi-gia rằng: Hãy đem hòm của Đức Chúa Trời đến gần (vì trong ngày đó hòm của Đức Chúa Trời ở cùng dân Y-sơ-ra-ên). 19 Nhưng trong khi Sau-lơ nói với thầy tế lễ, thì tiếng ồn ào lại càng thêm lên trong trại quân Phi-li-tin. Sau-lơ nói cùng thầy tế lễ rằng: Hãy rút tay ngươi lại. 20 Đoạn, Sau-lơ và hết thảy quân lính ở cùng người hiệp lại, đi tới chốn chiến trường, kìa thấy người Phi-li-tin rút gươm giết lẫn nhau, hỗn loạn cực điểm. 21 Những người Hê-bơ-rơ đã từ lâu phục dân Phi-li-tin và theo họ trong trại quân, nay lại trở lòng hiệp với dân Y-sơ-ra-ên vẫn theo cùng Sau-lơ và Giô-na-than. 22 Lại khi hết thảy người Y-sơ-ra-ên đương ẩn trong núi Ép-ra-im, nghe dân Phi-li-tin chạy trốn, cũng rượt đuổi theo chúng nó mà đánh giặc. 23 Đức Giê-hô-va giải cứu Y-sơ-ra-ên trong ngày đó; cơn giặc tràn đến Bết-A-ven.
24 Cũng trong ngày đó, dân Y-sơ-ra-ên bị mệt đuối. Vả lại, Sau-lơ có thề cùng dân sự rằng: Đáng rủa sả người nào sẽ ăn vật thực gì trước khi chiều tối, tức trước khi ta báo thù những kẻ cừu địch ta! Vì vậy, cả dân sự đều cữ không ăn vật thực gì hết. 25 Song chúng dân đã đến trong một cái rừng có mật ong trên mặt đất. 26 Bấy giờ, dân sự đi vào trong rừng, thấy mật nầy chảy; chẳng ai dám chấm tay vào miệng, vì sợ lời thề. 27 Nhưng Giô-na-than không biết lời thề mà cha mình đã lập cùng dân sự, nên giơ đầu gậy mình cầm nơi tay chấm vào tàng mật ong, rồi lấy tay đem mật vào miệng, thì mắt người sáng ra. 28 Có người trong dân chúng cất tiếng nói rằng: Cha ông có thề cùng dân chúng rằng: Đáng rủa sả người nào ăn vật thực gì trong ngày nay. Vả, dân sự đều bị mệt đuối. 29 Giô-na-than đáp rằng: Cha ta làm rối cho xứ; hãy xem mắt ta đã sáng dường nào, vì cớ nếm chút mật nầy! 30 Ồ! chớ chi ngày nay dân sự đã ăn vật chiếm được của thù nghịch, thì sự thua bại dân Phi-li-tin đã lớn hơn biết bao!
31 Vậy ngày đó, dân Y-sơ-ra-ên đánh bại dân Phi-ti-tin từ Mích-ma cho đến A-gia-lôn. 32 Dân sự bị mệt đuối lắm, bèn xông vào của cướp, bắt chiên, bò, bò con, giết đi trên đất, rồi ăn thịt lộn với huyết. 33 Có người đến nói cùng Sau-lơ rằng: Kìa, dân sự phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, mà ăn thịt lộn với huyết. Người đáp: Ấy là một sự lỗi đạo! Hãy lập tức lăn một hòn đá lớn đến gần ta. 34 Lại tiếp rằng: Hãy đi khắp cơ binh rao rằng mỗi người phải dẫn đến ta chiên và bò mình, và giết đi tại đây. Rồi các người sẽ ăn thịt nó; như vậy các người không phạm tội cùng Đức Giê-hô-va mà ăn thịt lộn với huyết. Thế thì, trong đêm đó, mỗi người trong chúng dẫn súc vật mình có dưới tay, và giết nó trên hòn đá. 35 Sau-lơ bèn lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va; ấy là bàn thờ thứ nhứt mà người lập cho Đức Giê-hô-va.
36 Đoạn, Sau-lơ nói: Chúng ta hãy đi xuống đuổi theo dân Phi-li-tin trong khi ban đêm, cướp phá chúng nó cho đến sáng sớm, và chớ để sống một ai. Chúng thưa rằng: Hãy làm mọi điều vua lấy làm phải. Thầy tế lễ bèn nói: Chúng ta hãy đến gần Đức Chúa Trời. 37 Sau-lơ cầu vấn Đức Chúa Trời rằng: Tôi phải nên xuống đuổi theo dân Phi-li-tin chăng? Ngài sẽ phó chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên chăng? Song lần nầy Đức Chúa Trời chẳng đáp lại lời gì hết. 38 Đoạn, Sau-lơ bảo rằng: Hỡi các quan trưởng của dân sự, hết thảy hãy đến gần đây, xét tìm tội lỗi đã phạm trong ngày nay là sao. 39 Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng giải cứu Y-sơ-ra-ên, mà thề rằng kẻ đã phạm tội, dẫu chính là Giô-na-than, con trai ta, cũng phải chết đi! Trong cả dân sự chẳng có ai đáp lời người. 40 Người bèn nói cùng cả Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi hãy đứng bên nầy; ta và Giô-na-than, con trai ta, sẽ đứng bên kia. Dân sự thưa rằng: Hãy làm điều vua lấy làm phải. 41 Sau-lơ thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Ôi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy tỏ ra sự thật. Giô-na-than và Sau-lơ bị chỉ ra, còn dân sự thì vô can. 42 Sau-lơ nói: Hãy bắt thăm cho ta và Giô-na-than, con trai ta. 43 Giô-na-than bị chỉ ra. Sau-lơ nói cùng Giô-na-than rằng: Hãy tỏ cho ta biết điều ngươi đã làm. Giô-na-than thú thật rằng: Tôi có dùng đầu gậy tôi cầm nơi tay mà nếm chút mật ong; nầy tôi đây phải chết. 44 Sau-lơ nói: Hỡi Giô-na-than, nếu ngươi không chết, nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa rất nặng trên ta! 45 Nhưng dân sự đáp cùng Sau-lơ rằng: Uả! Giô-na-than, là người đã làm cho Y-sơ-ra-ên được đại thắng dường kia, phải chết sao? Điều đó chẳng nên! Chúng tôi chỉ sanh mạng của Đức Giê-hô-va mà thề rằng một sợi tóc trên đầu người sẽ chẳng rụng xuống đất; vì người ở cùng Đức Chúa Trời mà được thắng ngày nay. Như vậy, dân sự giải cứu Giô-na-than, và người khỏi bị xử tử. 46 Đoạn, Sau-lơ trở về, chẳng đuổi theo dân Phi-li-tin nữa; và dân Phi-li-tin đều trở về trong xứ mình.
47 Sau khi Sau-lơ đã cầm quyền nước Y-sơ-ra-ên, thì người giao chiến cùng kẻ thù nghịch mình tứ phía, tức cùng Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, các vua Xô-ba, và cùng dân Phi-li-tin; hễ người cử binh đến đâu, thì báo thù được đến đó. 48 Người tụ tập quân lính, đánh dân A-ma-léc, và giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay những kẻ cướp phá họ.
49 Các con trai của Sau-lơ là Giô-na-than, Gi-sê-vi, và Manh-ki-sua, người cũng có hai con gái; lớn, tên là Mê-ráp; nhỏ, tên là Mi-canh; 50 vợ của Sau-lơ tên là A-hi-nô-am, con gái của A-hi-mát. Tổng binh của đạo binh người là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, chú của Sau-lơ. 51 Kích, cha của Sau-lơ và Nê-rơ, cha của Áp-ne, là con trai của A-bi-ên. 52 Trọn đời Sau-lơ có sự tranh chiến dữ dội cùng dân Phi-li-tin; hễ khi Sau-lơ thấy người mạnh mẽ và bạo dạn, thì chiêu mộ người theo mình.

14

Yaunathas tua cov Filixatee

1Muaj ib hnub Yaunathas uas yog Xa‑u tus tub hais rau tus hluas uas nqa nws tej cuab yeej ua rog tias, “Wb cia li hla mus rau tim cov Filixatee pab tub rog uas zov kev.” Tiamsis nws tsis qhia rau nws txiv paub. 2Xa‑u tsuam chaw nyob ntawm ntug moos Kinpe‑a hauv tsob qab ntoo txiv ntsiav kws hauv lub moos Miloo. Cov neeg uas nrog Xa‑u nyob kwvlam muaj rau pua leej, 3thiab Ahiya uas coj lub efauj kuj nrog Xa‑u nyob. Ahiya txiv yog Ahithu uas yog Ikhanpau tus tijlaug, nws yawg yog Fineha, nws yawg koob yog Eli uas ua Yawmsaub tus pov thawj hauv lub moos Silau. Cov tub rog kuj tsis paub tias Yaunathas mus lawm. 4Lub dawm uas Yaunathas yuav hla mus rau cov Filixatee pab tub rog uas zov kev muaj ib ntxwj zeb zuag zuag nyob sab no hu ua Npauxe thiab ib ntxwj zeb nyob sab tid hu ua Xene. 5Ntxwj zeb sab ped tshwm ncaj ntawm Mimaj thiab ntxwj zeb sab nrad tshwm ncaj ntawm lub moos Kenpa.
6Yaunathas hais rau tus hluas uas nqa nws tej cuab yeej tias, “Wb cia li hla mus rau ntawm pab tub rog uas yog cov neeg tsis ua kevcai txiav. Tej zaum Yawmsaub yuav pab peb rau qhov tsis muaj ib yam dabtsi yuav tav tau qhov uas Yawmsaub cawm peb tsis hais nws siv neeg coob los tsawg.” 7Tus uas nqa nws tej cuab yeej teb nws tias, “Koj cia li ua txhua yam uas koj lub siab xav ua. Kuv nrog koj ua ke thiab koj lub siab xav li cas kuv lub siab kuj ua ib yam li ntawd.” 8Ces Yaunathas txawm hais tias, “Wb yuav hla mus rau ntawm cov neeg ntawd thiab tshwm rau lawv pom. 9Yog lawv hais rau wb tias, ‘Cia li nyob tos txog thaum peb tuaj txog neb,’ ces wb yuav nyob twjywm ntawm lub chaw thiab wb yuav tsis nce mus rau ntawm lawv. 10Yog lawv hais tias, ‘Cia li nce tuaj rau ntawm peb,’ ces wb yuav nce mus. Qhov uas lawv teb li ntawd yuav qhia rau wb paub tias Yawmsaub twb muab lawv cob rau hauv wb txhais tes lawm.” 11Ob tug thiaj tshwm rau cov Filixatee pab tub rog pom, mas cov Filixatee hais tias, “Saib nawj, cov Henplais tawm hauv qhov tsiv nraim tshwm tuaj lawm.” 12Ces cov tub rog uas zov kev ntawd txawm hu Yaunathas thiab tus uas nqa nws tej cuab yeej hais tias, “Cia li nce tuaj rau ntawm peb mas peb yuav qhia ib yam dabtsi rau neb.” Yaunathas txawm hais rau tus uas nqa nws tej cuab yeej tias, “Cia li raws kuv qab los, rau qhov Yawmsaub twb muab lawv cob rau hauv cov Yixayee txhais tes lawm.”
13Ces Yaunathas txawm nkag nce mus thiab tus uas nqa nws tej cuab yeej kuj raws nws qab mus. Cov neeg no thiaj li tuag rau ntawm Yaunathas txhais tes thiab tus uas nqa nws tej cuab yeej kuj tua lawv raws qab mus. 14Thawj zaug uas Yaunathas thiab tus uas nqa nws tej cuab yeej tua lawv ntawd mas tuag kwvlam nees nkaum leej. Thaj chaw uas lawv sib tua ntawd dav li ib nkawg nyuj laij teb ib tav su. 15Cov Filixatee sawvdaws ras zom zaws tsis hais hauv lub yeej thiab ib ncig lub yeej. Pab tub rog uas zov kev thiab cov tub rog uas mus lws tebchaws kuj ntshai tshee hnyo. Av kuj ntseeg nkaws, ua rau muaj kev ras zom zaws loj heev.
16Xa‑u cov tub rog uas faj xwm hauv lub moos Kinpe‑a hauv Npeeyamee tebchaws tsa muag ntsia ua ciav pom cov Filixatee coob coob ntawd dhia khiav ntxhov hnyo rau tom ub tom no. 17Ces Xa‑u txawm hais rau cov neeg uas nrog nws nyob tias, “Cia li suav saib leejtwg tawm ntawm peb mus lawm.” Thaum lawv suav saib ua ciav Yaunathas thiab tus uas nqa nws tej cuab yeej tsis nyob ntawd. 18Xa‑u txawm hais rau Ahiya tias, “Cia li coj Vajtswv lub phij xab los ntawm no,” rau qhov lub sijhawm ntawd Vajtswv lub phij xabv nyob hauv cov Yixayee lawm. 19Thaum Xa‑u nrog tus pov thawj hais lus txawm muaj suab nrov heev zuj zus hauv cov Filixatee lub yeej. Xa‑u thiaj hais rau tus pov thawj tias, “Cia li nkaum tes, tsis txhob ua nug lawm.” 20Ces Xa‑u thiab nws cov tub rog txawm sau nthwv mus ntaus rog, ua ciav cov Filixatee rov sib tua ua ntxhov hnyo sib chab sib chaws. 21Cov Henplais uas twb mus nrog cov Filixatee nyob ua ntej los lawm thiab tuaj rau hauv lub yeej ntawd, kuj tig los koom nrog cov Yixayee uas yog Xa‑u thiab Yaunathas tog. 22Thaum cov Yixayee uas tsiv nraim rau pem toj siab Efa‑i tebchaws tau hnov tias cov Filixatee tabtom khiav, lawv kuj caum qab mus ua rog rau thiab. 23Hnub ntawd Yawmsaub cawm cov Yixayee li no. Lawv thiaj ntaus rog mus dhau plaws lub moos Npe‑avee.
24Hnub ntawd cov Yixayee raug kev ceeblaj heev vim yog Xa‑u twv tseg rau cov tub rog tias, “Leejtwg noj mov ua ntej hnub tsis tau poob qho thiab ua ntej uas kuv tsis tau ua pauj rau kuv cov yeeb ncuab tag, cia tus ntawd raug foom tsis zoo.” Vim li no cov tub rog tsis noj mov kiag li. 25Cov neeg sawvdaws mus rau hauv hav zoov mas muaj zib ntab nyob hauv pem teb. 26Thaum cov neeg mus rau hauv hav zoov lawm mas pom zib ntab tabtom nrog, tiamsis tsis muaj leejtwg cev tes muab los noj, vim yog ntshai tej lus uas twv tseg lawd. 27Tiamsis Yaunathas tsis hnov leej txiv tej lus uas nws twv rau cov pejxeem. Nws thiaj muab tus hau pas nrig uas nws coj tshum xub ntab cev tes muab cov zib los noj, ces nws qhov muag thiaj kaj tuaj. 28Muaj ib tug yawg hais tias, “Koj txiv twv tseg rau cov tub rog tias, ‘Hnub no leejtwg noj mov yuav raug foom tsis zoo.’ Cov neeg thiaj tsaug leeg heev.” 29Yaunathas thiaj hais tias, “Kuv txiv ua rau lub tebchaws raug kev ceeblaj. Sim saib kuv lub qhov muag twb kaj lawm vim kuv tau noj mentsis zib ntab. 30Yog hnub no cov neeg tau noj tej uas txeeb tau ntawm yeeb ncuab los mas yuav zoo dua ntau npaug, rau qhov nimno qhov uas tua cov Filixatee kuj tsis muaj ntau lawm.”
31Hnub ntawd lawv tua cov Filixatee ntawm Mimaj mus txog lub moos Aiyaloo. Mas cov tub rog tsaug leeg heev. 32Lawv thiaj dhia mus muab tej uas txeeb tau los, yog yaj thiab nyuj thiab menyuam nyuj coj los tua kiag rau hauv av, noj kiag nqaij thiab ntshav ua ke. 33Mas luag thiaj mus hais rau Xa‑u tias, “Cov neeg ua txhaum rau Yawmsaub vim yog noj kiag nqaij thiab ntshav.” Mas Xa‑u hais tias, “Nej ua neeg fav xeeb lawm. Cia li dov ib lub pob zeb loj los rau ntawm kuv no.” 34Thiab Xa‑u hais tias, “Cia li mus hais thoob plaws rau cov neeg tias, ‘Nej txhua tus yuav tsum coj nej tej nyuj tej yaj los tua rau saum lub pob zeb no noj. Tsis txhob ua txhaum rau Yawmsaub vim yog noj nqaij thiab ntshav.’ ” Mas hmo ntawd txhua tus coj lawv tej nyuj los tua rau qhov ntawd. 35Xa‑u ua ib lub thaj xyeem rau Yawmsaub. Yog thawj lub thaj uas nws ua rau Yawmsaub.
36Ces Xa‑u hais tias, “Peb cia li mus caum cov Filixatee hmo ntuj thiab txeeb lawv tej qhov txhia chaw ib hmos kaj ntug. Peb tsis txhob tseg ib tug dim siav li.” Cov neeg teb tias, “Cia li ua raws li koj pom zoo.” Tiamsis tus pov thawj hais tias, “Cia peb los ua nug rau Vajtswv ntawm no tso.” 37Ces Xa‑u thiaj nug Vajtswv tias, “Kuv yuav mus caum cov Filixatee los tsis txhob mus? Koj yuav muab lawv cob rau hauv cov Yixayee txhais tes los tsis muab?” Tiamsis hnub ntawd Vajtswv tsis teb Xa‑u. 38Xa‑u thiaj hais tias, “Nej sawvdaws uas yog cov thawj, cia li los ntawm no, nej cia li tshuaj saib yog vim li cas hnub no muaj lub txim no tshwm los. 39Muaj Yawmsaub tus uas cawm cov Yixayee muaj txojsia nyob pom, txawm yog txojkev txhaum nyob ntawm kuv tus tub Yaunathas los nws yeej yuav tuag xwb.” Tiamsis cov neeg sawvdaws ntawd tsis muaj ib tug teb nws li. 40Ces Xa‑u txawm hais rau cov Yixayee sawvdaws tias, “Cia nej tuaj ib tog, mas kuv thiab kuv tus tub Yaunathas tuaj ib tog.” Mas cov pejxeem hais rau Xa‑u tias, “Cia li ua raws li koj pom zoo.” 41Ua li ntawd Xa‑u thiaj thov hais tias, “Au Yawmsaub uas yog cov Yixayee tus Vajtswv, ua cas hnub no koj tsis teb kuv uas yog koj tus qhev? Yog lub txim nyob ntawm kuv thiab kuv tus tub Yaunathas, thov teb rau Uli, yog lub txim nyob ntawm cov Yixayee thov teb rau Thumi.” Ces Xa‑u thiab Yaunathas thiaj yog tog uas ua txhaum mas cov pejxeem dim. 42Ces Xa‑u thiaj hais tias, “Rov qab saib Uli thiab Thumi rau kuv thiab kuv tus tub Yaunathas.” Mas kev txhaum poob rau Yaunathas.
43Ces Xa‑u thiaj hais rau Yaunathas tias, “Koj tau ua dabtsi lawm? Cia li hais rau kuv saib.” Yaunathas thiaj hais tias, “Kuv tau sim noj mentsis zib ntab ntawm tus hau pas nrig hauv kuv txhais tes. Kuv nyob ntawm no, kuv yeem tuag.” 44Xa‑u thiaj hais tias, “Yog kuv tsis tua koj thov Vajtswv ua hnyav dua ntawd rau kuv. Yaunathas koj yuav tuag tiag tiag li.” 45Cov pejxeem hais rau Xa‑u tias, “Tsim nyog Yaunathas uas coj kev kov yeej loj kawg los rau cov Yixayee tuag lov? Tsis txhob ua li ntawd. Muaj Yawmsaub uas muaj txojsia nyob pom, tsis tseev nws ib txoj plaubhau poob rau hauv av li, vim hnub no nws tau koom nrog Vajtswv ua rog.” Cov pejxeem thiaj txhiv tau Yaunathas nws thiaj tsis tuag. 46Ces Xa‑u txawm tsis raws caum cov Filixatee lawm. Cov Filixatee rov mus rau lawv qub teb qub chaw.
47Thaum Xa‑u tau ua vajntxwv kav cov Yixayee, nws ua rog rau nws cov yeeb ncuab rau txhua fab, yog ua rog rau Mau‑a thiab Asmoo thiab Edoo thiab cov vajntxwv hauv Xaunpa tebchaws thiab cov Filixatee. Nws mus rau qhovtwg kuj ntaus yeej qhov ntawd. 48Nws muaj siab loj siab tuab ua rog thiab ntaus yeej cov Amalej thiab cawm cov Yixayee dim hauv cov uas tuaj lws lawv txhais tes.
49Xa‑u li tub yog Yaunathas, Isavi thiab Makhisuva. Nws ob tug ntxhais tus hlob hu ua Mela, tus yau hu ua Mikhas. 50Xa‑u tus pojniam hu ua Ahinau‑as, nws yog Ahima‑a tus ntxhais. Xa‑u tus thawj rog yog Anaw uas yog Naw tus tub, Naw yog Xa‑u yawg laus. 51Khij yog Xa‑u txiv, Naw yog Anaw txiv, Naw thiab Khij yog Anpi‑ee li tub.
52Xa‑u sim neej mas muaj kev ua rog rau cov Filixatee loj heev. Thaum Xa‑u pom leejtwg muaj zog thiab siab loj siab tuab nws coj los nrog nws nyob ua nws li tubtxib tub khai.