17

Ô-sê, vua sau chót của Y-sơ-ra-ên

1 Năm thứ mười hai đời A-cha, vua Giu-đa, thì Ô-sê, con trai Ê-la, lên làm vua Y-sơ-ra-ên, tại Sa-ma-ri; người cai trị chín năm. 2 Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, song chẳng bằng các vua Y-sơ-ra-ên trước người.
3 Sanh-ma-na-sa, vua A-si-ri, đi lên hãm đánh Ô-sê; người bị thần phục Sanh-ma-na-sa, và đóng thuế cho người. 4 Nhưng vua A-si-ri thấy Ô-sê toan mưu phản; vì Ô-sê có sai sứ giả đến Sô, vua Ê-díp-tô, và không nộp thuế cho vua A-si-ri như người hằng năm đã làm; vua A-si-ri bèn bắt người, xiềng lại, và hạ ngục. 5 Đoạn, vua A-si-ri đi lên xâm chiếm cả xứ, đến vây Sa-ma-ri trong ba năm. 6 Năm thứ chín đời Ô-sê, vua A-si-ri hãm lấy Sa-ma-ri, đem dân Y-sơ-ra-ên sang qua A-si-ri, lập họ ở tại Cha-la và trên bờ Cha-bo, sông của Gô-xan, cùng trong các thành nước Mê-đi.
7 Vả, dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã rút họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô, và khỏi tay hà hiếp của Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô; chúng đã kính thờ các thần khác, 8 theo thói tục của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, và theo lệ mà các vua Y-sơ-ra-ên đã định. 9 Dân Y-sơ-ra-ên làm lén những việc bất chánh nghịch cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng, xây dựng những nơi cao trong khắp các thành họ, từ tháp vọng canh cho đến thành kiên cố, 10 dựng lên những trụ thờ trên các nổng cao và dưới những cây rậm. 11 Tại trên các nơi cao, chúng xông hương y như các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt họ, phạm những việc gian ác, và chọc giận Đức Giê-hô-va. 12 Chúng hầu việc những hình tượng mà Đức Giê-hô-va đã cấm chúng rằng: Các ngươi chớ thờ chúng nó.
13 Song Đức Giê-hô-va cậy miệng các đấng tiên tri và những kẻ tiên kiến mà khuyên Y-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng: Khá từ bỏ đường ác của các ngươi, hãy gìn giữ điều răn và luật lệ ta, tùy theo các mạng lịnh ta cậy những tiên tri, là tôi tớ ta, mà truyền cho tổ phụ các ngươi. 14 Nhưng chúng không muốn nghe, cứng cổ mình, y như các tổ phụ của chúng không có lòng tin Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 15 Chúng khinh bỏ các luật lệ và giao ước Ngài đã lập cùng tổ phụ họ, và những lời chứng mà Ngài đã phán với họ. Chúng đi theo các thần hư không, và trở thành hư không, bắt chước các dân tộc ở chung quanh mình, mà Đức Giê-hô-va đã cấm làm theo gương của chúng nó. 16 Chúng khinh bỏ hết thảy giới mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tự đúc lấy hai tượng bò con, cùng làm thần tượng A-sê-ra, thờ lạy hết thảy cơ binh trên trời, và thờ phượng Ba-anh. 17 Chúng cũng đưa con trai con gái mình qua lửa, dùng tà thuật, tin bói khoa, chuyên làm điều dữ trước mặt Đức Giê-hô-va, để chọc giận Ngài. 18 Bởi cớ ấy, Đức Giê-hô-va rất nổi giận dữ cùng dân Y-sơ-ra-ên, xua đùa chúng khỏi trước mặt Ngài; chỉ còn lại chi phái Giu-đa mà thôi.
19 Chính Giu-đa cũng không vâng giữ các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ; bèn đi theo những lệ luật mà Y-sơ-ra-ên đã lập. 20 Thế thì, Đức Giê-hô-va từ bỏ cả dòng dõi Y-sơ-ra-ên, làm khốn khổ họ, và phó họ vào tay các kẻ cướp giựt, cho đến phải lưu đày cách xa mặt Ngài.
21 Y-sơ-ra-ên đã phân rẽ nhà Đa-vít, tôn Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, làm vua; người quyến dụ Y-sơ-ra-ên bội nghịch Đức Giê-hô-va, và khiến cho họ phạm tội lớn. 22 Dân Y-sơ-ra-ên đều đi trong hết thảy tội lỗi của Giê-rô-bô-am đã phạm, chẳng từ bỏ chút nào, 23 cho đến ngày Đức Giê-hô-va đày đuổi họ khỏi trước mặt Ngài, y như Ngài đã phán bởi miệng của các tiên tri, tôi tớ Ngài. Vậy, Y-sơ-ra-ên bị cất khỏi xứ mình, lưu đày qua A-si-ri cho đến ngày nay.
24 Vua A-si-ri đem người ở Ba-by-lôn, Cu-tha, A-va, Ha-mát và Sê-phạt-va-im, đặt ở trong các thành của Sa-ma-ri, thế cho dân Y-sơ-ra-ên. Chúng chiếm lấy nước Sa-ma-ri, và ở trong các thành nó. 25 Khi chúng bắt đầu trú ngụ tại đó, thì không kính sợ Đức Giê-hô-va, nên Đức Giê-hô-va sai sư tử đến giết mấy người trong bọn chúng. 26 Người ta bèn nói với vua A-si-ri rằng: Các dân mà vua đã đem qua đặt trong các thành của Sa-ma-ri không biết lệ thờ phượng thần của xứ, vì vậy thần đó có sai sư tử đến giết họ, tại họ không biết lệ thờ lạy thần của xứ vậy. 27 Vua A-si-ri liền truyền lịnh rằng: Trong những thầy tế lễ mà các ngươi đã bắt ở đó đem qua đây, các ngươi hãy lấy một người, dẫn về ở tại trong xứ đó đặng dạy lệ thờ lạy thần của xứ. 28 Ấy vậy, một kẻ trong những thầy tế lễ mà chúng đã bắt ở Sa-ma-ri đem đi trở về, ở tại Bê-tên, và dạy dỗ dân sự phải thờ lạy Đức Giê-hô-va làm sao.
29 Song mỗi dân tộc đều tạo thần riêng cho mình, đặt nó trong những chùa miễu tại trên các nơi cao mà dân Sa-ma-ri đã dựng lên, tức dân tộc nào đặt thần mình trong thành nấy. 30 Dân Ba-by-lôn tạo hình tượng Su-cốt-Bê-nốt; dân Cút, tạo hình tượng Nẹt-ganh; dân Ha-mát tạo hình tượng A-si-ma; 31 dân A-vim tạo hình tượng Níp-ca và Tạt-tác; dân Sê-phạt-va-im thiêu con cái mình trong lửa cho A-tra-mê-léc và A-na-mê-léc, hai thần của dân Sê-phạt-va-im. 32 Chúng kính sợ Đức Giê-hô-va, nhưng chọn những người trong bọn mình lập làm thầy tế lễ về các nơi cao; những thầy tế lễ ấy vì chúng dâng những của tế lễ tại trong chùa miễu của các nơi cao đó. 33 Các dân tộc ấy kính sợ Đức Giê-hô-va, song cũng hầu việc các thần mình, theo thói tục của những dân tộc mà họ bị dời ra khỏi đó.
34 Ngày nay, chúng hãy còn làm theo thói tục cũ mình. Chúng không kính sợ Đức Giê-hô-va, chẳng vâng giữ hoặc luật lệ, hoặc thói tục, hoặc luật pháp, hay là điều răn truyền cho con cháu Gia-cốp, mà Ngài đặt tên là Y-sơ-ra-ên. 35 Đức Giê-hô-va đã lập giao ước với chúng, truyền dạy chúng rằng: Các ngươi chớ kính sợ các thần khác, chớ thờ lạy, hầu việc chúng nó, và đừng tế lễ chúng nó. 36 Nhưng các ngươi khá kính sợ Đức Giê-hô-va, là Đấng dùng đại năng, và cánh tay giơ thẳng ra, đem các ngươi ra khỏi Ê-díp-tô; Đấng đó các ngươi phải kính sợ thờ lạy, và dâng của lễ cho. 37 Các luật lệ, điều răn, qui tắc, và mạng lịnh mà Ngài chép cho các ngươi, các ngươi khá gìn giữ làm theo đời đời, chớ nên kính sợ các thần khác. 38 Các ngươi chẳng nên quên giao ước mà ta lập với các ngươi; chớ kính sợ các thần khác; 39 nhưng khá kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi tay các kẻ thù nghịch.
40 Dầu vậy, các dân tộc ấy không nghe theo, nhưng còn làm theo thói tục cũ của mình. 41 Như vậy, các dân tộc ấy kính sợ Đức Giê-hô-va và cũng hầu việc những hình tượng chạm của mình; tổ phụ chúng nó làm thế nào, thì con cái cháu chắt chúng nó cũng hãy còn làm thế ấy cho đến ngày nay.

17

Hôsea Ngă Pơtao Hơnăl Tuč Lŏn Čar Israel

1Amăng thŭn tal duapluh rơnŭk Ahaz jing pơtao ƀing Yudah, Hôsea ană đah rơkơi Êlah ngă pơtao ƀing Israel amăng plei Samaria laih anŭn ñu wai lăng amăng duapăn thŭn. 2Ñu ngă tơlơi sat ƀai ƀơi anăp mơta Yahweh, samơ̆ ñu ƀu ngă sat ƀai biă mă hrup hăng ƀing pơtao Israel git gai wai lăng hlâo kơ ñu ôh.
3Hlâo adih Hôsea jing pô dŏ gah yŭ tơlơi dưi Salmaneser pơtao prŏng dêh čar Assiria laih anŭn brơi jia kơ pơtao anŭn, yuakơ pơtao Salmaneser đĭ rai kơsung blah dưi hĭ laih kơ ƀing Israel. 4Samơ̆ hơmâo sa thŭn, Hôsea ngă mơneč pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Salmaneser. Ñu hơmâo pơkiaŏ laih ƀing ding kơna ñu nao pơ So pơtao ƀing Êjip kiăng rơkâo kơ pơtao anŭn djru ñu, laih anŭn ñu hơngah ƀu duh jia kơ pơtao ƀing Assiria anŭn dơ̆ng tah, jing tơlơi ñu juăt ngă rĭm thŭn hlâo adih. Hơnŭn yơh, tơdang Salmaneser thâo krăn kơ tơlơi anŭn, ñu mă krư̆ hĭ Hôsea amăng sang mơnă. 5Giŏng anŭn, pơtao ƀing Assiria anŭn wang blah djŏp anih amăng anih lŏn ƀing Israel laih anŭn ñu ăt kơsung nao blah plei phŭn Samaria laih anŭn blah hruă plei anŭn amăng klâo thŭn. 6Amăng thŭn tal duapăn rơnŭk Hôsea wai lăng, pơtao ƀing Assiria dưi mă hĭ plei Samaria laih anŭn ñu mă pơđuaĭ hĭ ƀing Israel nao pơ dêh čar Assiria. Ñu brơi ƀing gơ̆ dŏ amăng tring Halah hăng plei pơnăng Gôzan jĕ ƀơi krong Habôr laih anŭn amăng khul plei pla ƀing Mêdi.

Ƀing Israel Đuaĭ Ataih Hĭ Mơ̆ng Lŏn Čar Gơñu Pô Yuakơ Tơlơi Soh Gơñu

7Abih bang tơlơi tơnap tap anŭn truh kơ ƀing Israel yuakơ ƀing gơñu hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh Ơi Adai gơñu yơh, jing Pô pơklaih hĭ laih ƀing gơñu mơ̆ng tơlơi dưi Pharaoh pơtao ƀing Êjip laih anŭn ba tơbiă hĭ laih ƀing gơñu mơ̆ng lŏn čar Êjip. Ƀing gơñu kơkuh pơpŭ kơ ƀing yang rơba̱ng, 8laih anŭn đuaĭ tui khul tơlơi pơhrăm sat ƀing kơnung djuai Yahweh hơmâo puh pơđuaĭ hĭ laih mơ̆ng anăp gơñu hrŏm hăng khul tơlơi pơhrăm sat ƀing pơtao Israel hlâo adih hơmâo ngă soh laih mơ̆n. 9Hloh kơ anŭn dơ̆ng, ƀing Israel ngă soh hơgŏm pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh Ơi Adai gơñu. Ƀing gơñu pơdơ̆ng đĭ kơ gơñu pô khul anih kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng ƀơi khul anih glông čơdơ̆ng mơ̆ng anih gak glông truh pơ anih plei kơđông kơjăp amăng djŏp plei pla gơñu. 10Ƀing gơñu pơdơ̆ng đĭ khul boh pơtâo kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng laih anŭn khul tơmĕh kơyâo yang HʼAsêrah ƀơi rĭm kơčŏng bŏl čư̆ wơ̆t hăng gah yŭ rĭm phŭn kơyâo pum pam. 11Ƀơi rĭm anih glông anŭn ƀing gơñu čuh gơnam ƀâo mơngưi, tui hăng tơlơi ƀing kơnung djuai hơmâo ngă laih hlâo kơ Yahweh puh pơđuaĭ hĭ ƀing gơñu mơ̆ng anăp ƀing Israel. Ƀing Israel juăt ngă tơlơi ƀrưh mơhiăh tơl ngă kơ Yahweh hil ƀrŭk biă mă. 12Sĭt ƀing gơñu ăt kơkuh pơpŭ kơ khul rup trah mơ̆n wơ̆t tơdah Yahweh hơmâo khă laih tui anai, “Ƀing gih anăm ngă ôh tơlơi sat anŭn.” 13Yahweh pơkơđiăng kơ ƀing Israel hăng ƀing Yudah mơ̆ng lu ƀing pô pơala Ñu, jing ƀing pơƀuh tơlơi či truh pơanăp tui anai, “Wĕh đuaĭ hĭ bĕ mơ̆ng khul jơlan sat gih laih anŭn djă̱ pioh bĕ khul tơlơi pơđar hăng tơlơi pơtă pơtăn Kâo, jing tui hăng tơlơi Kâo hơmâo pơđar laih kơ ƀing ơi adon gih amăng abih bang Tơlơi Juăt. Abih bang tơlơi anŭn Kâo hơmâo brơi laih kơ ƀing gih mơ̆ng ƀing ding kơna Kâo jing ƀing pô pơala anŭn.”
14Samơ̆ ƀing Israel hơngah ƀu kiăng hơmư̆ ôh laih anŭn khăng akŏ kar hăng ƀing ơi adon gơñu hlâo adih mơ̆n, jing ƀing ƀu đaŏ kơnang kơ Yahweh Ơi Adai gơñu ôh. 15Sĭt ƀing Israel hơngah hĭ ƀu tui gưt ôh khul tơlơi Yahweh pơtă pơtăn. Ƀing gơñu kŏn djă̱ pioh lơi tơlơi pơgop Ñu pơkô̆ laih hăng ƀing ơi adon gơñu laih anŭn khul tơlơi pơkơđiăng Ñu hơmâo brơi laih kơ ƀing ơi adon gơñu. Ƀing gơñu đuaĭ tui khul rup trah đôč đač laih anŭn gơñu pô jing hĭ đôč đač yơh. Ƀing gơñu ngă tui tơlơi pơhơmutu ƀing kơnung djuai jum dar gơñu wơ̆t tơdah Yahweh hơmâo khă laih tui anai, “Anăm hla̱ tui tơlơi ƀing gơñu ngă ôh.” Samơ̆ ƀing gơñu ăt ngă khul tơlơi Yahweh hơmâo khă laih kơ ƀing gơñu ƀu dưi ngă anŭn mơ̆n.
16Ƀing gơñu hơngah lui hĭ abih bang tơlơi Yahweh Ơi Adai gơñu pơđar laih, laih anŭn tuh tia kơ gơñu pô dua boh rup trah ană rơmô laih anŭn treh trah sa ƀĕ tơmĕh rup trah HʼAsêrah mơ̆n kiăng kơ kơkuh pơpŭ. Ƀing gơñu bon kơkuh kơ abih bang khul pơtŭ hăng adai adih laih anŭn kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng Baal mơ̆n. 17Ƀing gơñu čuh ngă yang ƀing ană đah rơkơi đah kơmơi gơñu kiăng pơyơr kơ yang rơba̱ng. Ƀing gơñu pơjuăt ngă pơjâo iâu yang laih anŭn jao gơñu pô hlo̱m ƀo̱m kiăng kơ ngă nanao tơlơi sat ƀai ƀơi anăp Yahweh tơl ngă kơ Ñu hil biă mă.
18Tui anŭn, Yahweh hil biă mă kơ ƀing Israel tơl Ñu ba pơđuaĭ hĭ ƀing gơñu mơ̆ng anăp Ñu yơh. Tui anŭn, kơnơ̆ng ƀing Yudah đôč dŏ glaĭ. 19Samơ̆ ƀing Yudah ăt kŏn djă̱ pioh khul tơlơi pơđar Yahweh Ơi Adai gơñu lơi. Ƀing gơñu ăt đuaĭ tui khul tơlơi phiăn soh sat ƀing Israel hơmâo ngă laih. 20Yuakơ khul tơhơnal tơlơi anŭn yơh, Yahweh hơngah lui hĭ abih bang ƀing Israel. Ñu pơkơhma̱l hĭ ƀing gơ̆ laih anŭn jao hĭ ƀing gơ̆ kơ tơlơi dưi ƀing sua mă, tơl Ñu puh pơđuaĭ hĭ ƀing gơ̆ mơ̆ng anăp Ñu.
21Hlâo adih, tơdang Yahweh mă pơđuaĭ hĭ ƀing Israel mơ̆ng sang anŏ Dawid, ƀing gơñu ruah Yarobam, ană đah rơkơi Nebat, jing pơtao gơñu. Samơ̆ pơtao Yarobam plư ƀing Israel lui hĭ tơlơi tui gưt kơ Yahweh laih anŭn dui ba ƀing gơ̆ ngă tơlơi soh prŏng biă mă. 22Ƀing Israel dŏ ngă tui ƀe̱l nanao amăng abih bang tơlơi soh Yarobam laih anŭn ƀu wir đuaĭ ataih hĭ ôh mơ̆ng khul tơlơi soh anŭn, 23tơl Yahweh ba pơđuaĭ hĭ ƀing gơñu mơ̆ng anăp Ñu, tui hăng tơlơi Ñu pơkơđiăng laih mơ̆ng abih bang ƀing ding kơna Ñu jing ƀing pô pơala anŭn. Tui anŭn, Ñu brơi kơ ƀing Assiria ba pơđuaĭ hĭ ƀing Israel ataih mơ̆ng lŏn čar gơñu pô hăng nao dŏ pơ lŏn čar Assiria hlŏng truh kơ tă anai.

Ƀing Mơnuih Tuai Rai Dŏ Amăng Lŏn Čar Israel

24Pơtao Assiria ba rai ƀing mơnuih mơ̆ng khul plei pơnăng Babilon, Kuthah, Awa, Hamat laih anŭn Sepharwayim laih anŭn brơi kơ ƀing gơñu dŏ amăng khul plei pla jum dar plei phŭn Samaria kiăng kơ pơala kơ ƀing Israel. Ƀing gơñu mă hĭ plei Samaria laih anŭn hơdip amăng khul plei pla jum dar anŭn yơh. 25Yuakơ ƀing gơñu ƀu kơkuh pơpŭ kơ Yahweh ôh, tơdang ƀing gơñu phrâo truh pơ anih anŭn, tui anŭn Yahweh puh rai rơmung dŭl amăng ƀing gơñu laih anŭn khul hlô mơnơ̆ng anŭn pơdjai hĭ đơđa mơnuih amăng ƀing gơñu. 26Ƀing arăng laĭ pơthâo kơ pơtao Assiria tui anai, “Ƀing mơnuih ih mă pơđuaĭ hĭ laih anŭn ba rai dŏ amăng khul plei pla Samaria ƀu thâo ôh tơlơi phiăn kơkuh pơpŭ kơ yang amăng lŏn čar anŭn. Yang anŭn hơmâo puh rai khul rơmung dŭl amăng ƀing gơñu, tui anŭn hlô mơnơ̆ng anŭn hlak pơdjai hĭ ƀing gơñu yuakơ ƀing ană plei phrâo truh anŭn ƀu thâo krăn ôh hơget tơlơi yang lŏn čar anŭn kiăng.”
27Tui anŭn, pơtao Assiria pơtă tui anai, “Ruah bĕ sa čô amăng khua ngă yang ƀing gih ba rai mơ̆ng plei phŭn Samaria anŭn, laih anŭn pơkiaŏ bĕ ñu glaĭ hơdip pơ plei phŭn Samaria kiăng kơ pơtô brơi kơ ƀing mơnuih phrâo rai hơdip amăng lŏn čar Israel hơget tơlơi yang lŏn čar anŭn kiăng.” 28Tui anŭn, sa čô amăng ƀing khua ngă yang, jing ƀing arăng mă ba rai pơ plei Samaria, wơ̆t glaĭ hơdip pơ anih Bêthêl laih anŭn pơtô kơ ƀing tuai phrâo rai dŏ pơ anih anŭn kiăng kơkuh pơpŭ kơ Yahweh.
29Wơ̆t tơdah tui anŭn, rĭm kơnung djuai mơnuih mơ̆ng phara kơnung djuai pơkra khul rup trah yang gơñu pô amăng phara plei pla jing anih ƀing gơñu hlak hơdip, laih anŭn pơdơ̆ng đĭ khul rup trah yang anŭn ƀơi khul anih glông kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng ƀing Israel hơmâo pơkra laih hlâo adih. 30Ƀing mơnuih mơ̆ng plei pơnăng Babilon pơkra yang rup trah Sukkôt-Benôt, ƀing mơnuih mơ̆ng plei pơnăng Kuthah pơkra yang pơkra rup trah yang Nergal laih anŭn ƀing mơnuih mơ̆ng plei pơnăng Hamat pơkra rup trah yang Asima. 31Ƀing mơnuih mơ̆ng plei pơnăng Awa pơkra yang Nibhaz laih anŭn yang Tartak laih anŭn ƀing mơnuih mơ̆ng plei pơnăng Sepharwayim čuh ngă yang ƀing ană bă gơñu kiăng pơyơr kơ yang Adrammelek laih anŭn kơ yang Anammelek, jing ƀing yang mơnuih Sepharwayim. 32Ƀing gơñu kơkuh pơpŭ kơ Yahweh, samơ̆ ƀing gơñu ăt ruah mă ƀing mơnuih amăng kơnung djuai gơñu pô kiăng kơ jing ƀing khua ngă yang ƀơi khul anih glông kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng. 33Ƀing gơñu kơkuh pơpŭ kơ Yahweh, samơ̆ ƀing gơñu ăt kơkuh pơpŭ kơ ƀing yang gơñu pô mơ̆n tui hăng khul tơlơi phiăn ƀing kơnung djuai gơñu hơmâo tơbiă rai.
34Truh kơ tă anai ƀing gơñu ăt dŏ ngă nanao tui anŭn jing khul tơlơi ƀing gơñu juăt ngă hlâo adih. Ƀing gơñu ƀu djơ̆ kơnơ̆ng kơkuh pơpŭ kơ Yahweh đôč ôh, kŏn tŏng ten ngă tui lơi khul tơlơi pơtă pơtăn, tơlơi phiăn, tơlơi juăt laih anŭn tơlơi pơđar Yahweh hơmâo brơi laih kơ ƀing kơnung djuai Yakôb, jing pô Yahweh pơanăn Israel anŭn. 35Tơdang Yahweh pơjing tơlơi pơgop hăng ƀing Israel hlâo adih, Ñu pơđar kơ ƀing gơ̆ tui anai, “Anăm kơkuh pơpŭ kơ ƀing yang rơba̱ng ôh, anăm bon kơkuh kơ ƀing gơñu anŭn ôh, anăm mă bruă kơ ƀing gơñu ôh laih anŭn anăm ngă yang kơ ƀing gơñu ôh. 36Samơ̆ Kâo, Yahweh, jing Pô ba laih ƀing gih tơbiă mơ̆ng lŏn čar Êjip hăng tơlơi dưi kơtang, jing hăng hơpăl tơngan Kâo yơr tơbiă, Kâo yơh jing Pô ƀing gih khŏm kơkuh pơpŭ. Ƀing gih năng bon kơkuh laih anŭn pơyơr khul gơnam ngă yang kơ Kâo yơh. 37Ƀing gih khŏm nanao pơñen djă̱ pioh khul tơlơi pơtă, tơlơi phiăn, tơlơi juăt laih anŭn tơlơi pơđar Kâo čih brơi laih kơ ƀing gih. Anăm kơkuh pơpŭ kơ ƀing yang rơba̱ng ôh. 38Anăm wơr hĭ ôh tơlơi pơgop Kâo hơmâo pơjing laih hăng ƀing gih laih anŭn anăm kơkuh pơpŭ kơ ƀing yang rơba̱ng lơi. 39Samơ̆ kơkuh bĕ kơ Kâo, jing Yahweh Ơi Adai gih, yuakơ Kâo yơh jing Pô pơklaih hĭ ƀing gih mơ̆ng tơlơi dưi abih bang ƀing rŏh ayăt gih.”
40Samơ̆ ƀing kơnung djuai anŭn mơ̆ng dêh čar Assiria ƀu či hơmư̆ tui ôh. Ƀing gơñu ăt dŏ ngă tui ƀe̱l nanao mơ̆n hơdôm tơlơi sat gơñu hlâo adih. 41Wơ̆t tơdah ƀing kơnung djuai anŭn kơkuh pơpŭ kơ Yahweh, ƀing gơñu ăt kơkuh pơpŭ kơ khul rup trah mơ̆n. Truh kơ tă anai, ƀing ană bă tơčô tơčĕ gơñu ăt ngă tui nanao tơlơi sat anŭn ƀing ơi adon gơñu hơmâo ngă laih hlâo adih.