9

A-bi-mê-léc giết anh em mình và lên ngôi vua tại Si-chem. – Sự chết của người

1 A-bi-mê-léc, con trai Giê-ru-ba-anh, sang qua Si-chem, đến cùng các cậu và cả nhà ông ngoại mình, mà nói rằng: 2 Xin các ông hãy hỏi hết thảy người Si-chem, mà nói rằng: Hoặc tất cả bảy mươi người con trai Giê-ru-ba-anh cai trị trên các ngươi, hoặc chỉ một người làm vua của các ngươi, điều nào là tốt hơn? Cũng hãy nhớ rằng ta đồng cốt nhục với các ngươi. 3 Các cậu người nói giùm người, đem các lời nầy thuật lại cho hết thảy dân Si-chem nghe, và lòng chúng nghiêng về A-bi-mê-léc, vì chúng nói rằng: Người là anh em ta. 4 Chúng bèn ban cho người bảy mươi miếng bạc của miếu Ba-anh-Bê-rít; A-bi-mê-léc lấy bạc đó mướn những kẻ bại hoại hoang đàng đi theo mình. 5 Đoạn, người đi đến nhà cha mình tại Óp-ra, và trên một hòn đá, giết các anh em mình, tức những con trai của Giê-ru-ba-anh, số là bảy mươi người. Chỉ một mình Giô-tham, con út của Giê-ru-ba-anh, còn sống, bởi vì chàng đã ẩn mình.
6 Bấy giờ, hết thảy người Si-chem nhóm hiệp với cả họ Mi-lô, đi đến cây dẻ bộp bia đá ở tại Si-chem, mà tôn A-bi-mê-léc làm vua.
7 Giô-tham hay đặng điều đó, bèn đi lên đứng trên chót núi Ga-ri-xim, cất tiếng la rằng: Hỡi người Si-chem, hãy nghe ta, và nguyện Đức Chúa Trời nghe các ngươi! 8 Các cây cối đều đi đặng xức dầu cho một vua cai trị chúng nó. Chúng nó nói cùng cây ô-li-ve rằng: Hãy cai trị chúng tôi. 9 Cây ô-li-ve đáp: Ta há sẽ bỏ dầu ta mà Đức Chúa Trời và loài người đều tôn vinh, đặng đi xao động trên các cây cối ư? 10 Các cây cối lại nói cùng cây vả rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi. 11 Nhưng cây vả đáp rằng: Ta há sẽ bỏ sự ngọt ngon và trái tươi tốt ta đặng đi xao động trên các cây cối ư? 12 Đoạn, các cây cối nói cùng cây nho rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi. 13 Nhưng cây nho đáp: Ta há sẽ bỏ rượu ngon ta, là thứ làm cho vui Đức Chúa Trời và người ta, đặng đi xao động trên các cây cối ư? 14 Bấy giờ, hết thảy cây cối nói cùng gai gốc rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi. 15 Gai gốc đáp cùng các cây cối rằng: Nếu bởi lòng chân thật mà các ngươi muốn xức dầu ta làm vua các ngươi, thì hãy đến núp dưới bóng ta; bằng không, nguyện lửa ra từ gai và thiêu nuốt cây bá hương Li-ban đi! 16 Bây giờ, có phải các ngươi cư xử chân thật và công bình mà tôn A-bi-mê-léc làm vua chăng? Các ngươi có hậu đãi Giê-ru-ba-anh và nhà người chăng? Có báo đáp điều người đã làm cho các ngươi chăng? 17 Vì cha ta có tranh chiến cho các ngươi, liều mình mà giải cứu các ngươi khỏi tay dân Ma-đi-an. 18 Nhưng ngày nay các ngươi lại dấy lên cùng nhà cha ta, đã giết trên một hòn đá các con trai người, số là bảy mươi người, và lấy A-bi-mê-léc, con trai của con đòi người, mà tôn lên làm vua của dân Si-chem, vì hắn là anh em các ngươi. 19 Vậy, ví bằng ngày nay các ngươi có lấy sự chân thật và chánh trực mà đãi Giê-ru-ba-anh và nhà người, thì A-bi-mê-léc khá vui mừng nơi các ngươi, và các ngươi hãy vui mừng nơi hắn! 20 Bằng chẳng, nguyện lửa ra từ A-bi-mê-léc thiêu nuốt những người Si-chem cùng họ Mi-lô; và nguyện lửa ra từ những người Si-chem cùng họ Mi-lô mà thiêu nuốt A-bi-mê-léc!
21 Đoạn, Giô-tham trốn, đi ẩn náu tại Bê-re, và ở đó, vì sợ A-bi-mê-léc, anh mình.
22 A-bi-mê-léc cai trị Y-sơ-ra-ên trong ba năm. 23 Đoạn, Đức Chúa Trời sai đến một ác thần sanh sự bất bình giữa A-bi-mê-léc và người Si-chem; người Si-chem bèn phản nghịch A-bi-mê-léc, 24 để báo thù tội sát nhân đã phạm cùng bảy mươi con trai Giê-ru-ba-anh, và khiến huyết họ đổ tại trên A-bi-mê-léc, là anh đã giết họ, cùng đổ trên người Si-chem đã giúp hắn giết anh em mình. 25 Người Si-chem sai mấy kẻ đi rình rập người trên chót núi; chúng nó cướp giựt những kẻ đi qua đường gần bên chúng nó. A-bi-mê-léc hay được điều đó.
26 Bấy giờ, Ga-anh, con trai Ê-bết, cùng anh em mình đến vào trong Si-chem; người Si-chem đều để lòng tin cậy nơi người. 27 Rồi chúng ra ngoài đồng, hái những vườn nho của mình, đạp trái nho, và dự tiệc yến. Đoạn, họ vào trong đền thờ của thần chúng, ăn và uống, rồi rủa sả A-bi-mê-léc. 28 Ga-anh, con trai Ê-bết, bèn nói rằng: A-bi-mê-léc là ai, Si-chem là chi mà chúng ta phục sự A-bi-mê-léc? Hắn há chẳng phải con trai Giê-ru-ba-anh sao? Còn Xê-bun, há chẳng phải là kẻ phụ tá hắn ư? Các ngươi khá phục sự những người Hê-mô, là cha của Si-chem; còn chúng ta sao lại phục sự hắn? 29 Ồ! Nếu ta có dân sự nầy dưới tay ta, ta sẽ đuổi A-bi-mê-léc đi! Đoạn, người nói cùng A-bi-mê-léc rằng: Hãy gia tăng quân lính ngươi mà ra trận!
30 Xê-bun, quan cai thành, nghe được các lời của Ga-anh, con trai Ê-bết, nói, thì cơn giận người phừng lên, 31 mật sai sứ đến A-bi-mê-léc, mà nói rằng: Nầy Ga-anh, con trai Ê-bết, và anh em nó đã đến Si-chem, xui giục thành dấy nghịch cùng ông. 32 Vậy, đêm nay ông và các người theo ông phải chỗi dậy, đi phục binh ngoài đồng. 33 Đến sáng mai khi mặt trời vừa mọc, ông phải dậy sớm, xông hãm thành. Khi Ga-anh và quân theo nó ra đánh ông, thì ông hãy tùy cơ mà làm. 34 Vậy, A-bi-mê-léc và cả đạo binh theo người đều chỗi dậy ban đêm, chia ra làm bốn đội, và mai phục gần Si-chem.
35 Ga-anh, con trai Ê-bết, kéo ra và đứng tại cửa thành; A-bi-mê-léc và cả đạo binh theo người bèn đi ra khỏi nơi phục. 36 Ga-anh thấy đạo binh ấy, nói cùng Xê-bun rằng: Ta thấy một đạo binh từ trên chót núi xuống. Xê-bun đáp: Ngươi thấy bóng núi mà tưởng là người ta đó chớ! 37 Nhưng Ga-anh lại tiếp rằng: Quả thật một cơ binh ở trên núi xuống, và một đội do đường cây dẻ bộp thuật sĩ mà đến. 38 Xê-bun bèn la lên rằng: Chính ngươi đã nói: A-bi-mê-léc là ai mà ta phục sự hắn! Vậy, những lời khoe khoang của ngươi đó đã ra sao? Đó há chẳng phải đạo binh mà ngươi khinh dể ư? Bây giờ, khá đi ra giao chiến cùng chúng nó!
39 Ga-anh bèn đứng đầu các người Si-chem, đi ra giao chiến cùng A-bi-mê-léc. 40 Ga-anh bị A-bi-mê-léc đuổi theo, chạy trốn trước mặt người, và nhiều người bị thương ngã chết dọc đường, cho đến cửa thành. 41 A-bi-mê-léc đi ở tại A-ru-ma. Còn Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em người đi, không cho ở tại Si-chem nữa.
42 Qua ngày sau, dân sự đi ra ngoài đồng, có người đem tin đó cho A-bi-mê-léc hay. 43 Người bèn bắt cơ binh mình chia ra làm ba đội, để mai phục ngoài đồng. Khi thấy dân sự ở thành kéo ra, người liền chỗi dậy và hãm đánh chúng nó. 44 Đoạn A-bi-mê-léc và những kẻ đi theo lướt đến trước dừng lại tại cửa thành; còn hai đội kia xông vào hết thảy người ở ngoài đồng, và đánh giết họ. 45 A-bi-mê-léc hãm đánh thành trọn ngày, bèn chiếm lấy và giết hết thảy người ở trong, rồi phá thành và rắc muối ở đó.
46 Nghe tin nầy, hết thảy dân sự ở tháp Si-chem đều rút về trong đồn của miếu thần Bê-rít. 47 Người ta đem tin cho A-bi-mê-léc hay rằng hết thảy dân sự tháp Si-chem đều hiệp lại tại trong đồn. 48 A-bi-mê-léc bèn đi lên núi Sanh-môn với cả đạo binh theo mình. Người cầm lấy nơi tay một cái rìu chặt một nhánh cây, đỡ nó lên và vác trên vai; rồi nói cùng quân theo mình rằng: Các ngươi có thấy điều ta làm chăng? Hãy mau mau làm như ta. 49 Vậy, mỗi người chặt một nhánh cây, rồi đi theo A-bi-mê-léc. Họ dựng sắp nhánh cây đó nơi đồn, châm lửa vào, và thiêu đồn cùng những người ở trong. Như vậy hết thảy những người ở tháp Si-chem, nam và nữ, đều chết, số ước một ngàn.
50 A-bi-mê-léc liền đi đánh Thê-bết, vây và chiếm lấy nó. 51 Giữa thành phố có một cái tháp vững bền, hết thảy dân sự của thành, nam và nữ, đều chạy vô núp tại đó, và đóng cửa lại, rồi lên trên đỉnh tháp. 52 A-bi-mê-léc tấn tới tháp, xông hãm nó, và đi lại gần cửa đặng phóng hỏa. 53 Nhưng một người nữ ném thớt cối trên đầu A-bi-mê-léc làm bể sọ người. 54 Người liền kêu gã trai trẻ cầm binh khí hầu mình, mà nói rằng: Hãy rút gươm ngươi ra giết ta đi, kẻo người ta nói: Một người đàn bà đã giết người! Vậy, gã trai trẻ bèn đâm người, thì người chết. 55 Khi người Y-sơ-ra-ên thấy A-bi-mê-léc đã chết, thì mỗi người đi về nhà mình. 56 Như vậy, Đức Chúa Trời báo ứng A-bi-mê-léc vì tội ác hắn đã phạm cùng cha mình mà giết bảy mươi người anh em mình. 57 Đức Chúa Trời cũng báo ứng dân Si-chem vì mọi điều ác mà chúng nó làm. Sự rủa sả của Giô-tham, con trai Giê-ru-ba-anh, ứng nghiệm trên chúng nó là như vậy.

9

Abimelek Ngă Mơneč Kiăng Jing Khua Ba Akŏ Ƀing Israel

1Hơmâo sa hrơi, Abimelek ană đah rơkơi Yêrub-Baal, ăt jing Gideôn mơ̆n, nao pơ ƀing adơi ai amĭ ñu pơ plei pơnăng Sekhem laih anŭn pơđar kơ ƀing gơ̆ wơ̆t hăng abih bang djuai amĭ ñu mơ̆n, 2nao tơña abih bang ƀing ană plei amăng plei Sekhem tui anai, “Amăng dua tơlơi anai, tơlơi pă jing hiam hloh lĕ: Ƀing gih kiăng kơ abih bang tơjuhpluh čô ƀing ană đah rơkơi Yêrub-Baal git gai wai lăng ƀing gih ƀôdah kơnơ̆ng sa čô đôč git gai wai lăng ƀing gih? Hơdơr bĕ, kâo yơh jing kơđeh asar drah kơtăk gih.”
3Tơdang ƀing adơi ai anŭn ruai glaĭ abih bang tơlơi anŭn kơ ƀing ană plei plei Sekhem, ƀing ană plei čơdơ̆ng đuaĭ tui Abimelek yơh, yuakơ ñu jing ayŏng adơi gơñu. 4Ƀing gơñu pha brơi kơ Abimelek tơjuhpluh sekel amrăk mơ̆ng sang yang rơba̱ng Tơlơi Pơgop Baal, tui anŭn Abimelek yua gơnam anai yơh kiăng blơi apăh ƀing ƀrưh ƀai tơtă tơtăn kiăng kơ jing ƀing đuaĭ tui ñu. 5Ñu nao pơ sang ama ñu pơ plei Oprah laih anŭn ñu pơdjai hĭ tơjuhpluh ayŏng adơi ñu ƀơi kơnơ̆ng sa boh pơtâo prŏng đôč. Ƀing anŭn jing ƀing ană đah rơkơi Yêrub-Baal soh sel. Samơ̆ adơi ñu Yôtham jing ană đah rơkơi hơnăl tuč Yêrub-Baal đuaĭ kơdŏp tơklaih hĭ. 6Giŏng anŭn, abih bang ƀing ană plei plei pơnăng Sekhem hrŏm hăng anih kơđông kơjăp Bêt-Millô pơƀut glaĭ ƀơi boh pơtâo jĕ phŭn kơyâo prŏng amăng plei Sekhem kiăng kơ brơi Abimelek jing pơtao.
7Tơdang arăng ruai kơ Yôtham tơlơi anai, ñu đĭ ƀơi kơčŏng čư̆ Gerizim laih anŭn pơhiăp kraih pơ ƀing Sekhem sa tơlơi pơhơmutu tui anai, “Hơmư̆ kâo bĕ, Ơ ƀing ană plei plei Sekhem, kiăng kơ Ơi Adai dưi hơmư̆ ƀing gih yơh. 8Hơmâo sa hrơi khul kơyâo tơbiă nao kiăng trôč ia jâo kơ sa čô pơtao git gai gơñu pô. Ƀing gơñu pơhiăp hăng sa ƀĕ kơyâo ôliwơ tui anai, ‘Ơ khua ăh, jing pơtao gơmơi bĕ.’
9“Samơ̆ kơyâo ôliwơ anŭn laĭ glaĭ, ‘Hiư̆m ngă, kâo khŏm pơdơi hĭ tơlơi bruă kâo pơtơbiă rai ia rơmuă, jing gơnam arăng yua pơpŭ pơyom kơ mơnuih mơnam laih anŭn kơ ƀing yang kiăng kơ wơ̆t đĭ than kâo gah ngŏ khul kơyâo pơkŏn hă?’
10“Tŏ tui anŭn, khul kơyâo anŭn pơhiăp hăng kơyâo hra tui anai, ‘Rai bĕ laih anŭn jing pơtao gơmơi.’
11“Samơ̆ kơyâo hra laĭ glaĭ tui anai, ‘Hiư̆m ngă, kâo khŏm pơdơi hĭ tơlơi bruă kâo pơtơbiă rai boh čroh jơma̱n laih anŭn mơmĭh kiăng kơ wơ̆t khul than kâo gah ngŏ kơ khul kơyâo pơkŏn hă?’
12“Giŏng anŭn, khul kơyâo anŭn ăt laĭ kơ phŭn hrĕ boh kơƀâo mơ̆n tui anai, ‘Rai bĕ laih anŭn jing pơtao gơmơi.’
13“Samơ̆ hrĕ boh kơƀâo anŭn laĭ glaĭ, ‘Hiư̆m ngă, kâo khŏm pơdơi hĭ tơlơi bruă kâo pơtơbiă rai ia boh kơƀâo pơmơak kơ ƀing yang laih anŭn kơ mơnuih mơnam kiăng kơ wơ̆t khul than kâo gah ngŏ kơ khul kơyâo pơkŏn hă?’
14“Hơnăl tuč, abih bang kơyâo anŭn rơkâo kơ phŭn kơyâo drơi tui anai, ‘Rai bĕ laih anŭn jing pơtao gơmơi.’
15“Phŭn kơyâo drơi anŭn laĭ kơ khul kơyâo anŭn tui anai, ‘Tơdah ƀing gih kiăng kơ trôč ia jâo brơi kâo jing pơtao git gai ƀing gih biă mă, rai kơđap bĕ gah yŭ tơui kâo. Samơ̆ tơdah ƀing gih ƀu kiăng kơ kâo sĭt ôh, brơi bĕ apui tơbiă mơ̆ng phŭn kơyâo drơi laih anŭn čuh hĭ khul kơyâo sar amăng anih lŏn Lebanôn!’ ”
16“Yôtham ăt pơhiăp dơ̆ng hăng ƀing Sekhem tui anai: Hơnŭn yơh ră anai, ƀing gih ngă tơpă sĭt laih anŭn pơpŭ pơyom mơ̆ tơdang ƀing gih brơi laih Abimelek jing pơtao? Ƀing gih hơmâo ngă hiam laih mơ̆ kơ Yêrub-Baal wơ̆t hăng sang anŏ gơ̆? Laih anŭn ƀing gih hơmâo ngă laih mơ̆ kơ gơ̆ jing tơlơi gơ̆ năng kơ tŭ mă? 17Hơdơr glaĭ bĕ kơ tơlơi ama kâo hơmâo pơblah laih brơi kơ ƀing gih laih anŭn pơsăn tơlơi hơdip ñu kiăng pơklaih hĭ ƀing gih mơ̆ng tơngan tơlơi dưi ƀing Midyan. 18Samơ̆ ră anai ƀing gih hơmâo tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ laih hăng sang anŏ ama kâo, pơdjai hĭ laih tơjuhpluh čô ană đah rơkơi gơ̆ ƀơi kơnơ̆ng sa boh pơtâo đôč laih anŭn pơjing Abimelek, jing ană mơ̆ng đah kơmơi hlŭn gơ̆, jing pơtao git gai ƀing ană plei plei Sekhem yuakơ ñu jing ayŏng adơi gih. 19Tui anŭn yơh, hrơi anai, tơdah anŭn jing tơlơi bruă ƀing gih hơmâo ngă tơpă sĭt laih anŭn pơpŭ pơyom laih kơ sang anŏ Yêrub-Baal wơ̆t hăng sang anŏ gơ̆, brơi bĕ Abimelek mơak hăng ƀing gih laih anŭn ƀing gih mơak hăng ñu mơ̆n! 20Samơ̆ tơdah ƀing gih ƀu ngă tui anŭn laih ôh, brơi bĕ apui tơbiă rai mơ̆ng Abimelek čuh hĭ ƀing gih, jing ƀing ană plei plei Sekhem hăng anih kơđông kơjăp Bêt-Millô, laih anŭn brơi bĕ apui mơ̆ng ƀing gih, jing ƀing ană plei plei Sekhem hăng anih kơđông kơjăp Bêt-Millô, čuh hĭ Abimelek!”
21Giŏng anŭn, Yôtham đuaĭ kơdŏp hĭ tañ hăng nao hơdip pơ plei Beêr yuakơ ñu huĭ kơ ayŏng ñu Abimelek.
22Tơdơi kơ Abimelek git gai wai lăng ƀing Israel klâo thŭn, 23Ơi Adai pơkiaŏ rai yang bơngăt sat kiăng pơrŭng tŏng krah Abimelek hăng ƀing ană plei plei Sekhem, jing ƀing ngă mơneč pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Abimelek. 24Ơi Adai pơkiaŏ yang sat anŭn pơ Abimelek kiăng kơ rŭ nua tơlơi soh ñu tuh drah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơjuhpluh čô ană đah rơkơi Yêrub-Baal, laih anŭn pơkơhma̱l hĭ Abimelek wơ̆t hăng ƀing ană plei plei pơnăng Sekhem mơ̆n, jing ƀing pơtrŭt ñu pơdjai hĭ ƀing ayŏng adơi ñu. 25Kiăng kơ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Abimelek, ƀing ană plei plei Sekhem pơkiaŏ mơnuih nao dŏ krăp ƀơi khul bŏl čư̆ kiăng kơ krăp sua mă ƀing hlơi pô găn nao pơ anih anŭn, laih anŭn arăng ruai pơthâo kơ Abimelek kơ tơlơi anŭn.
26Hlak anŭn, Gaal, ană đah rơkơi Ebed, wơ̆t hăng ƀing ayŏng adơi ñu nao dŏ pơ plei Sekhem laih anŭn ƀing ană plei anŭn đaŏ kơnang tañ kơ ñu yơh kiăng kơ jing hĭ pô dui ba ƀing gơñu. 27Tơdơi kơ anŭn, ƀing gơñu tơbiă nao pơ đang hơma gơñu pô kiăng duñ pơƀut glaĭ boh kơƀâo hăng djet hĭ kiăng kơ pơkra tơlơi phet amăng sang yang Baal gơñu. Tơdang ƀing gơñu ƀơ̆ng mơñum, ƀing gơñu hơtŏm păh kơ Abimelek yơh. 28Giŏng anŭn, Gaal ană đah rơkơi Ebed laĭ tui anai, “Hlơi Abimelek jing lĕ? Hlơi jing ƀing ta, jing ƀing Sekhem, tơl ƀing ta năng đuaĭ tui ñu lĕ? Ƀu djơ̆ ôh hă, ñu jing ană đah rơkơi Yêrub-Baal laih anŭn Zebul jing pô khua djru ñu? Yua hơget ƀing ta khŏm đuaĭ tui Abimelek lĕ? Đuaĭ tui bĕ ƀing ană tơčô Hamôr jing ama Sekhem! 29Hiam biă mă yơh tơdah ƀing ană plei anai kơnơ̆ng đuaĭ tui hơjăn kâo đôč. Tui anŭn, kâo či pơrai hĭ Abimelek yơh. Kâo či laĭ kơ ñu tui anai, ‘Iâu rai bĕ abih bang ƀing ling tơhan ih kiăng kơ pơblah!’ ”
30Tơdang pô khua prŏng plei Zebul hơmư̆ hơdôm tơlơi Gaal ană đah rơkơi Ebed pơhiăp laih kar hăng anŭn, ñu hil biă mă. 31Ñu pơkiaŏ hơgŏm ƀing ding kơna ñu nao laĭ pơthâo kơ Abimelek tui anai, “Gaal ană đah rơkơi Ebed hrŏm hăng ƀing ayŏng adơi ñu hơmâo rai dŏ laih pơ plei Sekhem laih anŭn ñu hlak pơtrŭt pơsur ƀing ană plei anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ih. 32Hơnŭn yơh, tơdang mlam ih hăng ƀing ling tơhan ih năng nao dŏ krăp bĕ amăng đang hơma. 33Amăng mơguah ƀơi mông yang hrơi ƀlĕ, kơsung nao pơkơdơ̆ng glaĭ bĕ hăng plei anai. Tơdang Gaal laih anŭn ƀing ling tơhan ñu tơbiă nao pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ih, ngă bĕ kơ ƀing gơñu tui hăng tơlơi ih kiăng kơ ngă yơh.”
34Giŏng anŭn, Abimelek hăng abih bang ƀing ling tơhan ñu tơbiă nao tơdang mlam đih laih anŭn dŏ krăp jĕ plei Sekhem amăng pă̱ grup. 35Hlak anŭn Gaal, ană đah rơkơi Ebed, hơmâo tơbiă nao laih, laih anŭn hlak dŏ dơ̆ng ƀơi bah amăng mŭt nao pơ amăng ja̱ng plei. Djơ̆ ƀơi mông anŭn, Abimelek hăng ƀing ling tơhan ñu ƀuh Gaal laih anŭn ƀing gơñu hlak tơbiă mơ̆ng anih dŏ kơdŏp gơñu yơh.
36Tơdang Gaal ƀuh ƀing gơñu, ñu laĭ kơ Zebul tui anai, “Adih, hơmâo ƀing mơnuih hlak trŭn rai mơ̆ng kơčŏng čư̆!” Zebul laĭ glaĭ, “Ih lăng tơhuăl hăng tơui khul čư̆ đôč, ih pơmĭn anŭn jing ƀing mơnuih.”
37Samơ̆ Gaal laĭ dơ̆ng tui anai, “Lăng adih, ƀing mơnuih hlak trŭn rai mơ̆ng anih čư̆ glông hloh adih laih anŭn hơmâo sa grup mơnuih hlak rai mơ̆ng gah khul kơyâo sen pơjâo.”
38Giŏng anŭn, Zebul laĭ kơ ñu tui anai, “Pơpă tơlơi pơhiăp pơgao ih anŭn lĕ, yuakơ ih yơh jing pô laĭ tui anai, ‘Hlơi jing Abimelek tơl ƀing ta đuaĭ tui ñu lĕ?’ Ƀu djơ̆ ôh hă, anŭn jing ƀing mơnuih ih hơmâo klao djik laih? Tơbiă nao pơblah hăng ƀing gơñu bĕ!”
39Tui anŭn, Gaal ba tơbiă ƀing ană plei plei pơnăng Sekhem kiăng pơblah hăng Abimelek yơh. 40Abimelek kiaŏ blah ƀing gơñu laih anŭn ƀing gơñu đuaĭ kơdŏp yơh; ăt hơmâo lu mơnuih rơbuh đih ruă rơka mơ̆n amăng tơlơi pơblah kơtuai jơlan hlŏng truh pơ amăng ja̱ng plei. 41Abimelek wơ̆t glaĭ dŏ amăng plei Arumah laih anŭn Zebul puh pơđuaĭ hĭ Gaal wơ̆t hăng ƀing ayŏng adơi ñu mơ̆ng plei Sekhem.
42Amăng hrơi tŏ tui, Abimelek hơmư̆ arăng laĭ pơthâo kơ tơlơi ƀing ană plei plei Sekhem črong pơmĭn kiăng tơbiă nao pơ đang hơma. 43Tui anŭn, ñu pơkăh pơpha ƀing ling tơhan ñu jing klâo tơpul kiăng kơ krăp pơblah amăng đang hơma yơh. Tơdang ñu ƀuh ƀing mơnuih tơbiă mơ̆ng plei, ñu tơgŭ kiăng kơ kơsung blah ƀing mơnuih anŭn yơh. 44Abimelek hăng tơpul hrŏm hăng ñu ječ ameč đuaĭ nao tañ dŏ ƀơi amăng ja̱ng plei. Bơ kơ dua tơpul adih, ƀing gơñu kơsung nao pơ ƀing mơnuih amăng đang hơma anŭn laih anŭn blah pơdjai hĭ abih ƀing gơñu yơh. 45Amăng abih hrơi yơh ƀing Abimelek pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng plei anŭn tơl ñu hơmâo mă hĭ plei anŭn hăng pơdjai hĭ abih mơnuih pơ anŭn. Giŏng anŭn, ñu pơrai hĭ plei anŭn laih anŭn pruai hra amăng plei anŭn yơh.
46Tơdang hơmư̆ kơ tơlơi anŭn, ƀing ană plei amăng sang kơtŭm Sekhem đuaĭ mŭt pơ anih gah lăm kơ pơnăng sang yang rơba̱ng Tơlơi Pơgop Baal yơh. 47Tơdang Abimelek hơmư̆ ƀing gơñu hơmâo pơƀut glaĭ laih pơ anih anŭn, 48ñu hăng ƀing ling tơhan ñu đĭ nao ƀơi čư̆ Zalmôn. Ñu mă jo̱ng čŏng khul than kơyâo laih anŭn glăm ƀơi bra ñu. Ñu pơđar kơ ƀing tơhan ñu tui anai, “Tañ bĕ! Ngă tui bĕ hơget tơlơi ƀing gih hơmâo ƀuh laih kâo ngă anai!” 49Giŏng anŭn, abih bang ƀing ling tơhan ñu čŏng glăm khul than kơyâo hăng đuaĭ tui Abimelek. Ƀing gơñu pơkom khul than kơyâo anai ƀơi gah ngŏ bơbŭng anih ƀing anŭn dŏ kơdŏp anŭn, tuč apui čuh ƀơi gah ngŏ kơ ƀing mơnuih amăng lăm anŭn yơh. Tui anŭn, abih bang mơnuih amăng sang kơtŭm anŭn ăt djai hĭ mơ̆n laih anŭn mrô ƀing gơñu hơmâo truh kơ sa-rơbâo čô wơ̆t hăng ƀing đah rơkơi đah kơmơi yơh.
50Tŏ tui anŭn, Abimelek nao pơ plei pơnăng Têbêz, blah hruă plei anŭn laih anŭn blah mă hĭ. 51Samơ̆ amăng lăm plei anŭn hơmâo sa boh sang kơtŭm kơjăp; abih bang ƀing mơnuih đah rơkơi đah kơmơi jing ƀing ană plei đuaĭ mŭt amăng anŭn. Ƀing gơñu krư̆ khuă hĭ gơñu pô laih anŭn đĭ nao pơ bơbŭng sang tơhnă̱ anŭn yơh. 52Abimelek rai pơblah pơ sang kơtŭm anŭn. Samơ̆ tơdang ñu rai jĕ kiăng čuh hĭ sang anŭn hăng apui, 53hơmâo sa čô đah kơmơi plĕ trŭn sa boh rơsŭng jơlit djơ̆ ƀơi akŏ ñu hăng ngă pơčah hĭ akŏ ñu yơh.
54Tañ mơtam Abimelek iâu rai pô djă̱ gơnam blah ñu hăng laĭ tui anai, “Suă tơbiă đao ih hăng klâŏ pơdjai hĭ kâo bĕ, tui anŭn ƀing gơñu ƀu thâo laĭ ôh tui anai, ‘Sa čô đah kơmơi pơdjai hĭ ñu.’ ” Tui anŭn, pô ding kơna ñu klâŏ pơdjai hĭ ñu laih anŭn ñu djai hĭ yơh. 55Tơdang ƀing Israel ƀuh Abimelek djai laih, ƀing gơñu đuaĭ glaĭ pơ sang anŏ gơñu pô yơh.
56Tui anŭn, Ơi Adai pô yơh rŭ nua kơ tơlơi sat ƀai Abimelek hơmâo ngă laih kơ ama ñu jing tơlơi ñu pơdjai hĭ abih tơjuhpluh čô ayŏng adơi ñu pô. 57Ơi Adai ăt rŭ nua glaĭ kơ tơlơi sat ƀai ƀing Sekhem hơmâo ngă laih mơ̆n. Tui anŭn yơh, tơlơi hơtŏm păh Yôtham ană Yêrub-Baal krep truh laih ƀơi ƀing ană plei plei Sekhem.