11

Sự cầu nguyện

(Mat 6:9-13; 7:7-11)

1 Có một ngày, Đức Chúa Jêsus cầu nguyện, ở nơi kia. Khi cầu nguyện xong, một môn đồ thưa Ngài rằng: Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, cũng như Giăng đã dạy môn đồ mình. 2 Ngài phán rằng: Khi các ngươi cầu nguyện, hãy nói: Lạy Cha! Danh Cha được thánh; nước Cha được đến; 3 xin cho chúng tôi ngày nào đủ bánh ngày ấy; 4 xin tha tội chúng tôi, vì chúng tôi cũng tha kẻ mích lòng mình; và xin chớ đem chúng tôi vào sự cám dỗ!
5 Đoạn, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Nếu một người trong các ngươi có bạn hữu, nửa đêm đến nói rằng: Bạn ơi, cho tôi mượn ba cái bánh. 6 vì người bạn tôi đi đường mới tới, tôi không có chi đãi người. 7 Nếu người kia ở trong nhà trả lời rằng: Đừng khuấy rối tôi, cửa đóng rồi, con cái và tôi đã đi ngủ, không dậy được mà lấy bánh cho anh; --- 8 ta nói cùng các ngươi, dầu người ấy không chịu dậy cho bánh vì là bạn mình, nhưng vì cớ người kia làm rộn, sẽ dậy và cho người đủ sự cần dùng. 9 Ta lại nói cùng các ngươi: Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, và sẽ mở cửa cho ai gõ.
11 Trong các ngươi có ai làm cha, khi con mình xin bánh mà cho đá chăng? Hay là xin cá, mà cho rắn thay vì cá chăng? 12 Hay là xin trứng, mà cho bò cạp chăng? 13 Vậy nếu các ngươi là người xấu, còn biết cho con cái mình vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban Đức Thánh Linh cho người xin Ngài!

Chúa chữa lành người bị quỉ ám; binh vực chức vụ mình và từ chối làm phép lạ

(Mat 12:22-30; 38-45; Mac 3:20-27)

14 Đức Chúa Jêsus đuổi một quỉ câm; khi quỉ ra khỏi, người câm liền nói được. Dân chúng đều lấy làm lạ; 15 song có mấy kẻ nói rằng: Người nầy nhờ Bê-ên-xê-bun là chúa quỉ mà trừ quỉ. 16 Kẻ khác muốn thử Ngài, thì xin Ngài một dấu lạ từ trời xuống.
17 Đức Chúa Jêsus biết ý tưởng họ, bèn phán rằng: Nước nào tự chia rẽ nhau thì tan hoang, nhà nào tự chia rẽ nhau thì đổ xuống. 18 Vậy, nếu quỉ Sa-tan tự chia rẽ nhau, thì nước nó còn sao được, vì các ngươi nói ta nhờ Bê-ên-xê-bun mà trừ quỉ? 19 Nếu ta nhờ Bê-ên-xê-bun mà trừ quỉ, thì con các ngươi nhờ ai mà trừ quỉ? Bởi vậy, chính con các ngươi sẽ làm quan án các ngươi. 20 Nhưng nếu ta cậy ngón tay Đức Chúa Trời mà trừ quỉ, thì nước Đức Chúa Trời đã đến nơi các ngươi rồi. 21 Khi một người mạnh sức cầm khí giới giữ cửa nhà mình, thì của cải nó vững vàng. 22 Nhưng có người khác mạnh hơn đến thắng được, thì cướp lấy khí giới người kia đã nhờ cậy, và phân phát sạch của cải.
23 Phàm ai không theo ta, thì nghịch cùng ta, ai không thâu hiệp với ta, thì tan lạc. 24 Khi tà ma đã ra khỏi một người, thì đi dông dài các nơi khô khan để kiếm chỗ nghỉ. Kiếm không được, thì nó nói rằng: Ta sẽ trở về nhà ta là nơi ta mới ra khỏi. 25 Nó trở về, thấy nhà quét sạch và dọn dẹp tử tế, 26 bèn đi rủ bảy quỉ khác dữ hơn mình vào nhà mà ở; vậy, số phận người nầy lại khốn khổ hơn phen trước.
27 Đức Chúa Jêsus đương phán những điều ấy, có một người đàn bà ở giữa dân chúng cất tiếng thưa rằng: Phước cho dạ đã mang Ngài và vú đã cho Ngài bú! 28 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Những kẻ nghe và giữ lời Đức Chúa Trời còn có phước hơn!
29 Khi dân chúng nhóm lại đông lắm, Đức Chúa Jêsus phán rằng: Dòng dõi nầy là dòng dõi độc ác; họ xin một dấu lạ, song sẽ không cho dấu lạ nào khác hơn dấu lạ của Giô-na. 30 Vì Giô-na là dấu lạ cho dân thành Ni-ni-ve, thì cũng một thể ấy, Con người sẽ là dấu lạ cho dòng dõi nầy. 31 Đến ngày phán xét, nữ hoàng Nam phương sẽ đứng dậy với người của dòng dõi nầy và lên án họ, vì người từ nơi đầu cùng đất đến nghe lời khôn ngoan vua Sa-lô-môn, mà nầy, ở đây có Đấng hơn vua Sa-lô-môn! 32 Đến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với người của dòng dõi nầy và lên án họ, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng dạy và ăn năn; mà nầy, ở đây có Đấng hơn Giô-na!
33 Không ai thắp đèn mà để chỗ khuất hay là dưới thùng, nhưng để trên chân đèn, hầu cho kẻ vào được thấy sáng. 34 Mắt là đèn của thân thể; nếu mắt ngươi sõi sàng, cả thân thể ngươi được sáng láng; song nếu mắt ngươi xấu, thân thể ngươi phải tối tăm. 35 Ấy vậy, hãy coi chừng kẻo sự sáng trong mình ngươi hóa ra sự tối chăng. 36 Nếu cả thân thể ngươi sáng láng, không có phần nào tối tăm, thì sẽ được sáng hết thảy, cũng như khi có cái đèn soi sáng cho ngươi vậy.

Lời giảng cho người Pha-ri-si

(Mat 23:1-36; Mac 12:38-40)

37 Đức Chúa Jêsus đương phán, có một người Pha-ri-si mời Ngài về nhà dùng bữa. Ngài vào ngồi bàn. 38 Người Pha-ri-si thấy Ngài không rửa trước bữa ăn, thì lấy làm lạ. 39 Nhưng Chúa phán rằng: Hỡi các ngươi là người Pha-ri-si, các ngươi rửa sạch bề ngoài chén và mâm, song bề trong đầy sự trộm cướp và điều dữ. 40 Hỡi kẻ dại dột! Đấng đã làm nên bề ngoài, há không làm nên bề trong nữa sao? 41 Thà các ngươi lấy của mình có mà bố thí, thì mọi điều sẽ sạch cho các ngươi. 42 Song khốn cho các ngươi, người Pha-ri-si, vì các ngươi, nộp một phần mười về bạc hà, hồi hương, cùng mọi thứ rau, còn sự công bình và sự kính mến Đức Chúa Trời, thì các ngươi bỏ qua! Ấy là các việc phải làm, mà cũng không nên bỏ qua các việc khác. 43 Khốn cho các ngươi, người Pha-ri-si, vì các ngươi ưa ngôi cao nhứt trong nhà hội, và thích người ta chào mình giữa chợ! 44 Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống như mả loạn, người ta bước lên trên mà không biết!
45 Một thầy dạy luật bèn cất tiếng nói rằng: Thưa thầy, thầy nói vậy cũng làm sỉ nhục chúng tôi. 46 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Khốn cho các ngươi nữa, là thầy dạy luật, vì các ngươi chất cho người ta gánh nặng khó mang, mà tự mình thì không động ngón tay đến! 47 Khốn cho các ngươi, vì các ngươi xây mồ mả các đấng tiên tri mà tổ phụ mình đã giết! 48 Như vậy, các ngươi làm chứng và ưng thuận việc tổ phụ mình đã làm; vì họ đã giết các đấng tiên tri, còn các ngươi lại xây mồ cho. 49 Vậy nên, sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽ sai đấng tiên tri và sứ đồ đến cùng chúng nó; chúng nó sẽ giết kẻ nầy, bắt bớ kẻ kia, 50 hầu cho huyết mọi đấng tiên tri đổ ra từ khi sáng thế, cứ dòng dõi nầy mà đòi, 51 là từ huyết A-bên cho đến huyết Xa-cha-ri đã bị giết giữa khoảng bàn thờ và đền thờ; phải, ta nói cùng các ngươi, sẽ cứ dòng dõi nầy mà đòi huyết ấy. 52 Khốn cho các ngươi, là thầy dạy luật, vì các ngươi đã đoạt lấy chìa khóa của sự biết, chính mình không vào, mà người khác muốn vào, lại ngăn cấm không cho!
53 Khi Đức Chúa Jêsus ra khỏi đó rồi, các thầy thông giáo và người Pha-ri-si bèn ra sức ép Ngài dữ tợn, lấy nhiều câu hỏi khêu chọc Ngài, 54 và lập mưu để bắt bẻ lời nào từ miệng Ngài nói ra.

11

Yêsu Pơtô Kơ Ƀing Ding Kơna Tơlơi Iâu Laĭ Kơ Ơi Adai

(Mathiơ 6:9-13; 7:7-11)

1Hơmâo sa hrơi, Yêsu hlak dŏ iâu laĭ kơ Ơi Adai; tơdang Ñu giŏng iâu laĭ laih, sa čô ding kơna Ñu rơkâo kơ Ñu tui anai, “Ơ Khua ăh, pơtô bĕ kơ ƀing gơmơi iâu laĭ kar hăng Yôhan hơmâo pơtô laih kơ ƀing ding kơna ñu.”
2Yêsu čơdơ̆ng pơtô kơ ƀing gơñu, “Tơdang ƀing gih iâu laĭ, laĭ bĕ tui anai:
  “Ơ Ama ăh,
  Brơi kơ abih bang mơnuih mơnam pơpŭ pơyom kơ anăn rơgoh hiam Ih.
  Brơi kơ Dêh Čar Hlŏng Lar Ih rai tañ ƀơi lŏn tơnah anai.
  3Pha brơi bĕ kơ ƀing gơmơi gơnam ƀơ̆ng huă djŏp kơ rĭm hrơi.
  4Pap brơi kơ tơlơi soh gơmơi đa
   kar hăng ƀing gơmơi pap brơi kơ hlơi pô pơsoh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơmơi.
   Laih anŭn anăm lui brơi kơ ƀing gơmơi bưp djơ̆ tơlơi plư hăng ngă soh hĭ ôh.”

Yêsu Pơtô Brơi Iâu Laĭ Nanao

5Giŏng anŭn, Yêsu laĭ pơhơmutu kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Hơmâo mơ̆ hlơi pô amăng ƀing gih, nao pơ sang gơyut ñu krah mlam hăng rơkâo tui anai, ‘Ơ giăng, brơi kâo čan klâo klŏ ƀañ tơpŭng ih, 6yuakơ sa čô gơyut kâo mơ̆ng ataih phrâo truh pơ sang kâo, samơ̆ kâo ƀu hơmâo gơnam ƀơ̆ng hơget ôh kiăng yŏng brơi kơ gơ̆ ƀơ̆ng huă.’ 7Tui anŭn, pô gơyut ñu anŭn laĭ glaĭ mơ̆ng gah lăm sang tui anai, ‘Anăm pơtơpăk kâo ôh, yuakơ kâo krư̆ bah amăng sang kâo laih, laih anŭn ƀing ană bă kâo hăng kâo dŏ đih pĭt laih, kâo ƀu dưi tơgŭ mă brơi kơ ih gơnam hơget ôh?’ 8Kâo laĭ kơ ƀing gih, wơ̆t dah gơyut ñu anŭn ƀu kiăng tơgŭ mă brơi gơnam hơget kơ gơ̆ ôh yuakơ gơ̆ jing gơyut ñu, samơ̆ yuakơ gơ̆ pơtơpăk rơkâo khŏm khŏm, tui anŭn ñu či tơgŭ hăng mă brơi kơ gơ̆ gơnam hơget gơ̆ rơkâo yơh.
9“Tui anŭn, Kâo laĭ kơ ƀing gih tui anai: Rơkâo nanao bĕ, ƀing gih či hơmâo; hơduah nanao bĕ, ƀing gih či hơduah ƀuh; laih anŭn khŏk bah amăng nanao bĕ, Ơi Adai či pŏk brơi kơ ƀing gih yơh. 10Ngă tui anŭn bĕ, yuakơ hlơi pô rơkâo nanao, ñu anŭn či mă tŭ; hlơi pô hơduah nanao, ñu anŭn či hơduah ƀuh; laih anŭn hlơi pô khŏk bah amăng nanao, Ơi Adai či pŏk brơi kơ ñu yơh.
11“Hlơi pô amăng ƀing gih jing ama, tơdah ană ñu rơkâo kơ akan, pơala kơ akan anŭn ñu brơi kơ gơ̆ ala mơtah hă? 12Ƀôdah tơdah gơ̆ rơkâo boh mơnŭ, pơala kơ boh mơnŭ anŭn ñu brơi kơ gơ̆ aguăt hă? 13Tui anŭn, wơ̆t tơdah ƀing gih jing mơnuih ƀu hiam klă ôh samơ̆ ăt thâo pha brơi gơnam brơi pơyơr hiam kơ ană bă gih, rơgao hloh kơ anŭn yơh Ama gih pơ adai adih či pha brơi Yang Bơngăt Hiam kơ ƀing hlơi pô rơkâo kơ Ñu.”

Yêsu Pơsuaih Sa Čô Mơnuih Kơmlô Yang Sat Ngă

(Mathiơ 12:22-30; Markôs 3:20-27)

14Hơmâo sa wơ̆t, Yêsu puh pơđuaĭ hĭ sa drơi yang sat ngă brơi kơmlô. Tơdang yang sat anŭn tơbiă đuaĭ laih, mơnuih kơmlô anŭn thâo pơhiăp mơtam laih anŭn ƀing mơnuih lu dŏ hli̱ng hla̱ng biă mă. 15Samơ̆ đơđa amăng ƀing mơnuih lu anŭn laĭ, “Ñu dưi puh pơđuaĭ hĭ ƀing yang sat yua mơ̆ng tơlơi mơyang khua yang sat Beelzebul yơh.” 16Hơmâo đơđa mơnuih pơkŏn rơkâo pơgŏ̱ Yêsu ngă tơlơi mơsêh mơyang mơ̆ng adai kiăng kơ lông lăng Ñu.
17Samơ̆ Yêsu thâo krăn abih bang tơlơi pơmĭn ƀing gơñu, laih anŭn Ñu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ană plei amăng sa dêh čar pă pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơdruă gơñu pô, dêh čar anŭn či răm rai yơh. Laih anŭn tơdah mơnuih lŏm kơ sa sang anŏ pă pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơdruă gơñu pô, sang anŏ anŭn ăt răm glưh hĭ mơ̆n. 18Laih anŭn tơdah ƀing yang sat amăng dêh čar Satan pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơdruă gơñu pô, hiư̆m dêh čar gơñu dưi dŏ kơjăp lĕ? Kâo pơhiăp tui anŭn yuakơ ƀing gih ƀuăh Kâo hơmâo puh pơđuaĭ laih yang sat hăng tơlơi mơyang Beelzebul yơh. 19Tơdah Kâo ngă tui anŭn, bơ kơ ƀing ding kơna gih, ƀing gơñu ăt puh pơđuaĭ hĭ yang sat hăng tơlơi mơyang Beelzebul mơ̆n hă? Hơnŭn yơh, ƀing ding kơna gih anŭn yơh či jing hĭ ƀing phat kơđi kơ ƀing gih jing soh yuakơ ƀing gih ƀuăh laih tui anŭn. 20Samơ̆ tơdah Kâo puh pơđuaĭ hĭ yang sat hăng tơlơi dưi mơyang Ơi Adai, sĭt tơlơi anŭn pơrơklă laih kơ ƀing gih tơlơi dưi mơyang Dêh Čar Ơi Adai truh laih kơ ƀing gih.”
21Giŏng anŭn, Yêsu laĭ pơhơmutu tui anai, “Tơdah sa čô mơnuih kơtang djă̱ gơnam blah dŏ gak wai sang ñu pô, sĭt abih bang dram gơnam kŏng ngăn ñu ăt dŏ rơnŭk hơđơ̆ng yơh. 22Samơ̆ tơdah hơmâo sa čô mơnuih kơtang hloh rai kơsung blah ñu hăng dưi hĭ kơ ñu, pô kơtang hloh anŭn či mă pơđuaĭ hĭ gơnam blah gơ̆ yơh jing gơnam gơ̆ kơnang, laih anŭn ăt mă pơpha hĭ dram gơnam kŏng ngăn gơ̆ mơ̆n.
23“Hlơi pô ƀu dŏ gah kơ Kâo, ñu anŭn pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo yơh, laih anŭn hlơi pô ƀu pơgop pơƀut glaĭ ôh ƀing mơnuih hăng Kâo, ñu anŭn pơčơlah hĭ ƀing gơ̆ yơh.”

Sa Drơi Yang Sat Wơ̆t Mŭt Glaĭ Dơ̆ng

(Mathiơ 12:43-45)

24Yêsu pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Tơdang sa drơi yang sat hơmâo tơbiă đuaĭ laih mơ̆ng sa čô mơnuih, ñu găn nao pơ tơdron ha̱r kiăng kơ hơduah anih pơdơi, samơ̆ ñu hơduah ƀu hơmâo ôh. Tui anŭn, ñu laĭ tui anai, ‘Kâo či wơ̆t glaĭ pơ sang kâo phrâo tơbiă đuaĭ laih.’ 25Tơdang ñu glaĭ, ñu ƀuh sang anŭn kih rơmet hiam tŏ tơroai laih. 26Tui anŭn, ñu nao jak ba tơjuh drơi yang sat pơkŏn dơ̆ng sat hloh kơ ñu pô, kiăng kơ mŭt dŏ amăng sang anŭn. Hơnăl tuč, tơlơi hơdip mơnuih anŭn răm hloh kơ hlâo yơh.”

Tơlơi Mơyŭn Mơak Sĭt

27Tơdang Yêsu pơtô giŏng laih tơlơi anŭn, hơmâo sa čô đah kơmơi amăng ƀing mơnuih lu pơhiăp kraih kơ Ñu tui anai, “Mơyŭn mơak yơh kơ amĭ Ih, jing pô hơmâo tơkeng laih kơ Ih laih anŭn pơmĕm Ih.”
28Samơ̆ Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Mơyŭn mơak hloh kơ anŭn yơh kơ ƀing hlơi pô hơmư̆ Boh Hiăp Ơi Adai laih anŭn ngă tui.”

Ƀing Mơnuih Lu Pơgŏ̱ Yêsu Ngă Gru Kơnăl Mơsêh Mơyang

(Mathiơ 12:38-42)

29Tơdang ƀing mơnuih lu pơƀut glaĭ lu jai, Yêsu čơdơ̆ng pơhiăp tui anai, “Ƀing mơnuih rơnŭk anai jing sat ƀai biă mă. Ƀing gơñu tơña hơduah kiăng kơ Kâo pha brơi sa gru kơnăl mơsêh mơyang, samơ̆ Kâo ƀu či pha brơi kơ ƀing gih ôh rơngiao kơ gru kơnăl mơsêh mơyang Ơi Adai pha brơi laih kơ pô pơala Yônah. 30Hơget bruă Ơi Adai ngă brơi kơ Yônah jing hĭ laih gru kơnăl kơ ƀing ană plei plei prŏng Nineweh; ăt kar kaĭ mơ̆n, hơget bruă Ơi Adai či ngă brơi kơ Kâo, jing Ană Mơnuih, či jing gru kơnăl kơ ƀing mơnuih rơnŭk anai yơh. 31Ƀơi hrơi Ơi Adai či phat kơđi abih bang mơnuih, hơbia mơ̆ng lŏn čar Seba đưm hlâo adih či tơgŭ klă̱ kơđi pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing mơnuih rơnŭk anai. Hơbia anŭn dưi klă̱ kơđi tui anŭn yuakơ ñu hơmâo rai laih mơ̆ng lŏn čar ataih biă mă kiăng kơ hơmư̆ tơlơi rơgơi pơtao Solomôn pơtô; anai nê, hơmâo Pô prŏng hloh kơ pơtao Solomôn hlak dŏ pơ anai, samơ̆ ƀing gih ƀu kiăng hơmư̆ tơlơi rơgơi Ñu ôh. 32Ƀơi hrơi phat kơđi mơ̆n, ƀing ană plei plei prŏng Nineweh đưm hlâo adih či tơgŭ klă̱ kơđi pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing mơnuih rơnŭk anai. Ƀing gơñu dưi klă̱ kơđi tui anŭn yuakơ ƀing gơñu hơmư̆ tơlơi Yônah pơtô laih anŭn kơhma̱l lui hĭ laih tơlơi soh sat gơñu; anai nê, hơmâo Pô prŏng hloh kơ pô pơala Yônah hlak dŏ pơ anai, samơ̆ ƀing gih ƀu kiăng hơmư̆ ôh tơlơi Ñu pơtô laih anŭn kŏn kơhma̱l hĭ tơlơi soh gih lơi!”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Tơlơi Bơngač

(Mathiơ 5:15; 6:22, 23)

33Yêsu pơtô dơ̆ng hăng tơlơi pơhơmutu anai, “Ƀu hơmâo ôh mơnuih čuh apui kơđen laih anŭn pioh hĭ ƀơi anih hơgŏm ƀôdah gah yŭ kơthŭng, samơ̆ pioh apui anŭn ƀơi tơkai kơđen yơh kiăng kơ ƀing hlơi pô mŭt amăng sang dưi ƀuh tơlơi bơngač yơh. 34Mơta ta jing apui kơđen kơ drơi jan ta. Tơdang mơta ƀing ta hiam rơđah, sĭt abih drơi jan ta bă hăng tơlơi bơngač yơh, samơ̆ tơdang mơta ƀing ta bum, abih drơi jan ta bă hăng tơlơi kơnăm yơh. 35Hơnŭn yơh, răng bĕ huĭ kơ tơlơi kơnăm mơmŏt mŭt amăng jua pơmĭn gih, ƀu djơ̆ jing tơlơi bơngač ôh. 36Tui anŭn, tơdah ƀing gih bă hăng tơlơi bơngač, ƀu hơmâo črăn pă ôh amăng jua pơmĭn gih jing kơnăm mơmŏt. Tơlơi bơngač anŭn či pơčrang rơđah abih bang jua pơmĭn gih kar hăng apui kơđen pơčrang bơngač kơ ƀing gih yơh.”

Yêsu Pơhiăp Kơ Ƀing Pharisai

(Mathiơ 23:1-36; Markôs 12:38-40)

37Tơdang Yêsu pơtô giŏng laih, hơmâo sa čô khua Pharisai jak iâu Yêsu nao ƀơ̆ng huă hăng ñu. Tui anŭn, Yêsu mŭt nao hăng dŏ be̱r ƀơi kơƀa̱ng ƀơ̆ng huă yơh. 38Pô Pharisai anŭn dŏ kơtuă biă mă tơdang ñu ƀuh Yêsu ƀu rao ôh tơngan hlâo kơ ƀơ̆ng huă tui hăng tơlơi phiăn gơñu.
39Tui anŭn, Khua Yang laĭ kơ ñu tui anai, “Ƀing Pharisai gih, rao pơrơgoh hĭ kơnơ̆ng gah rơngiao kơčŏk hăng ja̱m đôč, samơ̆ gah lăm gih bă hăng tơlơi hưp kluh hăng tơlơi sat ƀai. 40Ơ ƀing mlŭk ăh, ƀu djơ̆ ôh hă, Ơi Adai hơmâo pơjing laih gah rơngiao ăt pơjing laih gah lăm mơ̆n? 41Pơala kơ tơlơi anŭn, djru ngă hiam brơi bĕ kơ ƀing ƀun rin mơ̆ng gah lăm gih, sĭt abih bang tơlơi či rơgoh hĭ yơh kơ ƀing gih.
42“Răm ƀăm yơh kơ ƀing gih, jing ƀing Pharisai! Ƀing gih pơñen pơyơr kơ Ơi Adai sa črăn amăng pluh hơdôm gơnam tăm tui anai: Ač, plăng laih anŭn añăm tăm ƀâo hiam pơkŏn, samơ̆ tơlơi tơpă hơnơ̆ng laih anŭn tơlơi khăp kơ Ơi Adai jing tơlơi yom pơphan hloh ƀing gih hơngah lui hĭ. Hơdôm tơlơi anŭn yơh ƀing gih khŏm ngă laih anŭn kŏn hơngah lui hĭ lơi hơdôm tơlơi pơyơr hlâo kơ anŭn.”
43“Răm ƀăm yơh kơ ƀing gih, jing ƀing Pharisai! Ƀing gih khăp dŏ ƀơi grê pơpŭ pơyom hloh amăng sang jơnum laih anŭn khăp kơ arăng pơhiăp kơkuh kơ ƀing gih tŏng krah sang sĭ mơnia. 44Răm ƀăm yơh kơ ƀing gih! Ƀing gih jing kar hăng pơsat arăng ƀu hơmâo gru ôh, tui anŭn arăng rơbat juă ƀơi ngŏ pơsat anŭn samơ̆ ăt kŏn thâo mơ̆n.”
45Sa čô amăng ƀing nai pơtô thâo hluh Tơlơi Juăt laĭ glaĭ kơ Yêsu tui anai, “Ơ Nai ăh, tơdang Ih pơhiăp tui anŭn Ih ăt pơmlâo hĭ ƀing gơmơi mơ̆n.”
46Laih anŭn Yêsu laĭ tui anai, “Ăt răm ƀăm yơh kơ ƀing gih, jing nai pơtô Tơlơi Juăt! Ƀing gih pioh ƀơi arăng tơlơi phiăn kơtraŏ tơnap biă mă kiăng kơ gui, samơ̆ gih pô ƀu tĕk djơ̆ ôh tơlơi kơtraŏ anŭn hăng čơđe̱ng tơngan gih kiăng kơ djru ƀing gơñu.
47“Răm ƀăm yơh kơ ƀing gih! Ƀing gih pơkra brơi pơsat hiam rô̆ kơ ƀing pô pơala, samơ̆ ƀing ơi adon gih ƀu tui gưt kơ ƀing gơ̆ ôh laih anŭn hơmâo pơdjai hĭ laih ƀing gơ̆ hlâo adih. 48Tơdang ƀing gih ngă tui anŭn, ƀing gih pơrơđah ƀing gih tŭ ư laih hăng bruă sat ƀai ƀing ơi adon gih hơmâo ngă laih yơh. Ƀing gơñu pơdjai hĭ laih ƀing pô pơala anŭn laih anŭn ƀing gih ăt pơkra brơi pơsat ƀing gơ̆ mơ̆n. 49Hơnŭn yơh, Ơi Adai ăt laĭ rơgơi mơ̆n tui anai, ‘Kâo či pơkiaŏ nao pơ ƀing gơñu ƀing pô pơala laih anŭn ƀing ding kơna kiăng kơ pơtô laĭ; đơđa amăng ƀing gơ̆ ƀing gơñu či pơdjai hĭ, đơđa ƀing gơñu či pơtơnap hĭ yơh.’ 50Tui anŭn yơh, ƀing gih, jing ƀing mơnuih rơnŭk anai yơh, či grơ̆ng glăm kơ drah abih bang ƀing pô pơala anŭn hơmâo tuh laih čơdơ̆ng mơ̆ng phŭn kơ lŏn tơnah anai. 51Anŭn jing čơdơ̆ng mơ̆ng drah Abel, jing pô ayŏng gơ̆ pơdjai hĭ gơ̆, hlŏng truh pơ drah Zakharias, jing pô arăng pơdjai hĭ laih kơplăh wăh kơnưl ngă yang hăng sang yang. Sĭt yơh Kâo laĭ kơ ƀing gih, ƀing mơnuih rơnŭk anai yơh či grơ̆ng glăm kơ abih bang tơlơi tuh drah anŭn.
52“Răm ƀăm yơh kơ ƀing gih, jing ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt! Ƀing gih hơmâo mă pơđuaĭ hĭ laih mơ̆ng ƀing mơnuih hơdră jơlan kiăng kơ thâo krăn Ơi Adai, samơ̆ gih pô ƀu mŭt ôh amăng hơdră jơlan anŭn, laih anŭn dơ̆ng, ƀing gih pơgăn hĭ kŏn brơi ƀing arăng mŭt lơi amăng hơdră jơlan anŭn.”
53Tơdang Yêsu đuaĭ hĭ laih mơ̆ng anih anŭn, ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt hăng ƀing khua Pharisai čơdơ̆ng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yêsu kơtang biă mă, laih anŭn ƀing gơñu ăt čôih Yêsu kiăng kơ pơhiăp lu mơta tơlơi. 54Ƀing gơñu ngă tui anŭn kiăng kơ dŏ kơčăng mă tơlơi soh amăng rĭm boh hiăp Gơ̆ pơtô pơhrăm yơh.