Buổi già của Đa-vít. – A-đô-ni-gia muốn làm vua. – Đa-vít chọn Sa-lô-môn nối ngôi mình
1 Vua Đa-vít đã già, tuổi cao; và mặc dầu người ta đắp áo cho người, cũng không thể ấm được. 2 Các tôi tớ người nói với người rằng: Xin tìm cho vua chúa tôi một gái trẻ đồng trinh, để hầu hạ vua và săn sóc vua. Nàng sẽ nằm trong lòng vua, thì vua chúa tôi có thể ấm được. 3 Vậy người ta tìm trong khắp địa phận Y-sơ-ra-ên một người gái trẻ đẹp, và gặp được A-bi-sác, người Su-nem, dẫn nàng đến cùng vua. 4 Người gái trẻ nầy rất là lịch sự. Nàng săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua không thân cận nàng. 5 Vả, A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, tự tôn mà rằng: Ta sẽ làm vua. Người sắm xe và quân kị, cùng năm mươi người chạy trước mặt mình.⚓6 Cha người chẳng hề phiền lòng người mà hỏi rằng: Cớ sao mầy làm như vậy? --- Vả lại, A-đô-ni-gia rất đẹp, sanh ra kế sau Áp-sa-lôm. 7 Người bàn tính với Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia và với thầy tế lễ A-bia-tha; hai người theo phe A-đô-ni-gia và giúp đỡ người. 8 Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc và Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, Na-than, thầy tiên tri, Si-mê-i, Rê-i, và các dõng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia. 9 A-đô-ni-gia dâng những chiên, bò, và bò con mập bên hòn đá Xô-hê-lết, ở cạnh giếng Ên-Rô-ghên; rồi mời anh em mình, là các con trai của vua, và hết thảy những người Giu-đa phục sự vua. 10 Nhưng người chẳng mời Na-than, là đấng tiên tri, Bê-na-gia, các dõng sĩ, cùng Sa-lô-môn, em mình. 11 Bấy giờ, Na-than nói với Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn, mà rằng: Bà há chẳng hay rằng A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã làm vua, mà Đa-vít, chúa ta, chẳng hay biết sao?⚓12 Thế thì, bây giờ, hãy nghe; tôi sẽ cho bà một kế để bà cứu mạng sống mình và mạng sống của Sa-lô-môn. 13 Hãy đi ra mắt vua Đa-vít, và tâu rằng: Ôi vua, chúa tôi! Chúa há chẳng có thề cùng con đòi của chúa rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn ắt sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta, hay sao? Vậy, cớ sao A-đô-ni-gia trị vì? 14 Trong lúc bà tâu với vua như vậy, thì chính tôi cũng sẽ đi vào sau, làm cho quả quyết các lời của bà. 15 Vậy, Bát-Sê-ba đi đến cùng vua, tại trong phòng. Vua đã già lắm có A-bi-sác, người Su-nem, hầu hạ người. 16 Bát-Sê-ba cúi mình xuống và lạy trước mặt vua. Vua hỏi rằng: Ngươi muốn chi? 17 Bà tâu rằng: Chúa tôi ôi! chúa đã nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúa thề cùng con đòi của chúa rằng: Sa-lô-môn con trai ngươi sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta. 18 Ôi vua chúa tôi! Nhưng bây giờ, A-đô-ni-gia làm vua, mà chúa chẳng biết chi đến. 19 Người lại có giết bò đực, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cũng có mời hết thảy các vương tử với A-bia-tha, thầy tế lễ, và Giô-áp, quan tổng binh; nhưng người không mời Sa-lô-môn, kẻ tôi tớ vua. 20 Ôi vua chúa tôi! Cả Y-sơ-ra-ên đều xây mắt về vua, đợi vua cho họ biết ai là người kế vua phải ngồi trên ngai của vua, là chúa tôi. 21 Chẳng vậy, khi vua chúa tôi an giấc với các tổ phụ, thì tôi và con trai tôi là Sa-lô-môn sẽ bị xử như kẻ có tội. 22 Bà đương còn tâu với vua, thì tiên tri Na-than đến. 23 Người ta đến thưa cùng vua rằng: Nầy có tiên tri Na-than. Na-than ra mắt vua, sấp mình xuống trước mặt người mà lạy, 24 và nói rằng: Ôi vua chúa tôi! Có phải vua đã phán rằng: A-đô-ni-gia sẽ trị vì kế ta và ngồi trên ngai ta, chăng? 25 Thật vậy, ngày nay, người đã đi xuống giết bò, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cùng mời hết thảy các vương tử, quan tướng, và thầy tế lễ A-bia-tha; kìa, họ ăn uống tại trước mặt người, và la lên rằng: A-đô-ni-gia vạn tuế! 26 Còn tôi là kẻ tôi tớ vua, thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, và Sa-lô-môn, tôi tớ vua, thì người chẳng có mời. 27 Việc nầy há phải bởi vua chúa tôi mà ra? Và lại vua không cho các tôi tớ vua biết ai là người kế vua, phải ngồi trên ngai của vua chúa tôi. 28 Vua Đa-vít đáp rằng: Hãy gọi Bát-Sê-ba cho ta. Bà vào và đứng trước mặt vua. 29 Đa-vít bèn thề mà rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã giải cứu mạng sống ta khỏi các hoạn nạn! 30 Ta nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà thề cùng ngươi rằng: Quả hẳn Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ trị vì kế ta, nó sẽ ngồi trên ngai thế cho ta; thì ngày nay ta sẽ làm hoàn thành điều đó. 31 Bát-Sê-ba cúi mặt xuống đất và lạy trước mặt vua, mà tâu rằng: Nguyện vua Đa-vít, chúa tôi, vạn tuế! 32 Đoạn, vua Đa-vít nói: Hãy gọi cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa. Mấy người ấy bèn ra mắt vua. 33 Rồi vua nói với họ rằng: Hãy đem các đầy tớ của chủ các ngươi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, lên cỡi con la của ta, rồi đưa nó đến Ghi-hôn. 34 Ở đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than phải xức dầu cho người làm vua Y-sơ-ra-ên. Đoạn, các ngươi hãy thổi kèn lên mà hô rằng: 35 Vua Sa-lô-môn vạn tuế! Các ngươi sẽ theo sau người trở lên, người sẽ đến ngồi trên ngai ta, và trị vì thế cho ta. Ấy là người mà ta đã lập làm vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. 36 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa tâu cùng vua rằng: A-men! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua chúa tôi, cũng phán định như vậy. 37 Đức Giê-hô-va đã ở cùng vua chúa tôi thể nào, nguyện Ngài cũng ở cùng Sa-lô-môn thể ấy, và khiến ngôi người còn cao trọng hơn ngôi của vua Đa-vít, là chúa tôi! 38 Đoạn, thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít, đều đi xuống, đỡ Sa-lô-môn lên cỡi con la của vua Đa-vít, rồi đưa người đến Ghi-hôn. 39 Thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng dầu trong Đền tạm, và xức cho Sa-lô-môn. Người ta thổi kèn, cả dân sự đều hô lên rằng: Vua Sa-lô-môn vạn tuế! 40 Chúng đều theo người đi lên, thổi sáo, và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất rúng động bởi tiếng la của họ. 41 A-đô-ni-gia và hết thảy kẻ dự tiệc với mình đều nghe tiếng nầy khi vừa ăn xong. Lúc Giô-áp nghe tiếng kèn, thì nói: Sao trong thành có tiếng xôn xao ấy? 42 Người hãy còn nói, kìa Giô-na-than, con trai thầy tế lễ A-bia-tha, chợt đến. A-đô-ni-gia nói với người rằng: Hãy vào, vì ngươi là một tay dõng sĩ, chắc ngươi đem những tin lành. 43 Nhưng Giô-na-than đáp với A-đô-ni-gia rằng: Thật trái hẳn. Vua Đa-vít, chúa chúng ta, đã lập Sa-lô-môn làm vua. 44 Vua có sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít cùng người Phê-lê-thít đi theo người, và họ đã đỡ người lên cỡi con la của vua. 45 Đoạn, tại Ghi-hôn, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho người làm vua; họ đã từ đó trở lên cách reo mừng, và cả thành đều vang động. Đó là tiếng xôn xao mà các ông đã nghe. 46 Lại, Sa-lô-môn đã ngồi trên ngôi nước; 47 các tôi tớ của vua đến chúc phước cho vua Đa-vít, chúa chúng ta, mà tâu rằng: Nguyện Đức Chúa Trời của vua làm cho danh Sa-lô-môn tôn vinh hơn danh của vua, và khiến cho ngôi người cao trọng hơn ngôi của vua! Rồi vua cúi lạy nơi giường mình; 48 và có nói như vầy: Đáng khen ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài có ban một người để ngồi trên ngôi của tôi mà mắt tôi xem thấy. 49 Bấy giờ, hết thảy các người dự tiệc với A-đô-ni-gia đều bắt sợ hãi, đứng dậy, ai đi đường nấy. 50 A-đô-ni-gia cũng sợ Sa-lô-môn, đứng dậy, chạy nắm các sừng bàn thờ. 51 Có người đến thuật cho Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ, mà nói rằng: Hôm nay, vua Sa-lô-môn hãy thề với tôi rằng vua sẽ không giết đầy tớ người bằng gươm. 52 Sa-lô-môn đáp rằng: Nếu người ăn ở ra người tử tế, thì chẳng một sợi tóc nào của người sẽ rụng xuống đất; bằng có thấy sự ác nơi người, ắt người sẽ chết. 53 Vua Sa-lô-môn sai kẻ đem người xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia đến sấp mình xuống trước mặt Sa-lô-môn; Sa-lô-môn bèn nói với người rằng: Hãy trở về nhà ngươi.
1
H'Abisak Pah Kan Ma Y-David
1Hađăch David hŏ ranh jêh. Nđâp tơlah bu nkrum ăn păng ma âk blah ao, păng ăt mâu răm lĕ. 2Yor nây phung oh mon păng lah ma păng, "Ăn bu joi ma hađăch kôranh gâp du huê bu ur druh tang tat, ăn păng pah kan ma hađăch jêh ri mât uănh hađăch. Păng mra lâng ta ntang ntơh may, gay ma hađăch kôranh gâp dơi geh nau răm ntơh." 3Pôri khân păng joi du huê bu ur ueh tâm lam n'gor Israel, jêh ri saơ H'Abisak bu ur Sunamit, jêh nây leo ôbăl ma hađăch. 4Bu ur druh aơ ueh ngăn. Păng jêng nơm mât uănh hađăch jêh ri pah kan ma păng, ƀiălah hađăch mâu gŭ ôh n'hanh păng.
Y-Adônija Pit Sưng Hađăch
5Y-Adônija, kon buklâu H'Hagit n'hao êng păng nơm, lah: "Gâp mra jêng hađăch." Păng ndrăp ma păng nơm âk bôk ndeh seh jêh ri phung ncho seh, ndrel prăm jê̆t nuyh nchuăt panăp păng. 6Mbơ̆ păng mâu mâp buay lơi ôh păng ma nau ôp, "Moh nau dĭng may ƀư pô nây?"-Ngăn đŏng, păng jêng du huê buklâu ueh ngăn. Bu deh ma păng groi Y-Apsalôm. 7Păng tâm nchră đah Y-Jôap, kon buklâu Y-Sêruia jêh ri ndrel ma Y-Abiathar, Kôranh ƀư brah; bar hê tĭng mpeh Y-Adônija jêh ri kơl păng. 8Ƀiălah Y-Sadôk, kôranh ƀư brah, Y-Bênaya kon buklâu Y-Jêhôida, Y-Nathan kôranh nơm mbơh lor, Y-Simei, Y-Rei jêh ri phung janh katang Y-David mâu ŭch tâm rnglăp ôh đah Y-Adônija. 9Y-Adônija ƀư brah ma biăp, ndrôk, jêh ri kon ndrôk lay êp ta meng Lŭ Sôhêlet, dăch tu dak Ênrôgel, jêh ri păng jă lĕ rngôch phung oh nâu păng, jêng phung kon buklâu hađăch, jêh ri lĕ rngôch phung kôranh Yuda pah kan ma hađăch. 10Ƀiălah păng mâu jă ôh Y-Nathan, kôranh nơm mbơh lor, Y-Bênaya, kôranh tahan janh katang mâu lĕ jă Y-Salômôn oh păng. 11Nôk nây, Y-Nathan lah ma H'Batsêba mê̆ Y-Salômôn, "Ay mâu mâp tăng hĕ ma Y-Adônija, kon buklâu H'Hagit lĕ jêng hađăch, kôranh he Y-David mâu gĭt ôh nau nây? 12Pônây, aƀaơ ri, iăt hom; gâp mra nkoch ăn ma ay, gay ma ay dơi rklaih nau rêh ay nơm jêh ri nau rêh kon bu klâu ay Y-Salômôn. 13Hăn ro mâp ma Hađăch David jêh ri nkoch ma păng: Hơi hađăch kôranh gâp mâu di hĕ may lĕ sơm ton đah oh mon bu ur may, lah: "Y-Salômôn, kon buklâu may mra chiă uănh ntrok may, jêh ri păng mra gŭ ta sưng hađăch gâp?" Pôri mâm dĭng Y-Adônija jêng nkhơng hađăch?' 14Dôl ay hôm e ngơi ma hađăch, gâp tâm ban lĕ mra lăp pakơi ay jêh ri ăn n'hêl nanê̆ nau ay ngơi." 15Pôri, H'Batsêba hăn ma hađăch tâm jrô păng, hađăch lĕ ranh ngăn jêh, jêh ri H'Abisak bu ur Sunamit gŭ pah kan ma hađăch, 16H'Batsêba chon mbah ma hađăch, jêh ri hađăch lah: "Moh ay ŭch?" 17Ôbăl plơ̆ lah ma păng, "Hơi Kôranh gâp, may lĕ sơm ton jêh ma oh mon bu ur may đah Yêhôva Brah Ndu may, lah: 'Y-Salômôn, kon buklâu may mra chiă uănh ntrok gâp jêh ri păng mra gŭ ta sưng hađăch gâp'. 18Hơi hađăch kôranh gâp! Ƀiălah aƀaơ ri, Y-Adônija ƀư hađăch, may kŏ mâu gĭt đŏng nau nây. 19Păng lĕ ƀư brah jêh ma ndrôk, kon ndrôk lay, jêh ri biăp âk ngăn, geh jă đŏng lĕ rngôch phung kon buklâu hađăch, Y-Abiathar kôranh ƀư brah, jêh ri Y-Jôap kôranh tahan; ƀiălah păng mâu jă ôh Y-Salômôn oh mon may. 20Hơi hađăch kôranh gâp! Lĕ rngôch măt phung Israel rle uănh ma may, gay ma may mbơh ma khân păng gĭt mbu nơm mra gŭ ta sưng hađăch gay ntrok may. 21Tơlah mâu di ôh pônây, ôklak tơlah hađăch kôranh gâp khĭt gŭ ndrel ma phung chô che păng, pôri Y-Salômôn kon buklâu gâp, jêh ri gâp nơm bu mra uănh nâm bu phung bunuyh rlăng." 22Dôl ôbăl hôm e tâm ngơi đah hađăch, kôranh nơm mbơh lor Y-Nathan tât lăp, 23Bu văch tât mbơh ma hađăch, lah: "Aơ kôranh nơm mbơh lor Y-Nathan." Y-Nathan tât jêh panăp hađăch, păng chon mon mbah ma hađăch, 24jêh ri lah: "Hơi hađăch kôranh gâp! May mâp geh lah lĕ ma 'Y-Adônija mra chiă uănh ntrok gâp jêh ri păng mra gŭ ta sưng hađăch gâp'? 25Yor nây, nar aơ păng hŏ hăn trŭnh ƀư brah jêh ma ndrôk, kon ndrôk lay, jêh ri biăp âk ngăn, jêh nây lĕ jă jêh lĕ rngôch phung kon buklâu hađăch, Y-Jôap kôranh ma phung tahan, jêh ri kôranh ƀư brah Y-Abiathar; ta aơ, khân păng sông sa jêh ri nhêt, panăp păng, jêh ri lah: 'Hađăch Adônija mro mrăng!' 26Ƀiălah păng jă mâu ôh gâp oh mon may, kôranh ƀư brah Y-Sadôk, Y-Bênaya kon buklâu Y-Jêhôida, jêh ri Y-Salômôn, oh mon hađăch. 27Nau kan aơ mâu hĕ luh tă bơh hađăch kôranh gâp ntĭnh? Jêh ri đŏng, hađăch mâu ăn ôh phung oh mon hađăch gĭt mbu moh nơm ntrok hađăch, dơi gŭ ta sưng hađăch ma hađăch kôranh gâp." 28Hađăch David plơ̆ lah: "Kuăl hom H'Batsêba ma gâp. Păng lăp jêh ri dâk panăp hađăch. 29Y-David sơm ton lah: "Tĭng nâm Yêhôva hôm rêh, jêng Nơm hŏ sâm rklaih jêh nau rêh gâp luh tă bơh nau rêh ni! 30Gâp tâm amoh Yêhôva Brah Ndu phung Israel sơm ton jêh ma may, lah: 'Ngăn yơh ma Y-Salômôn, kon buklâu gâp, mra chiă uănh thoi gâp, păng mra gŭ ta sưng hađăch ntrok gâp;' tâm ban pônây đŏng gâp ƀư nar aơ." 31Jêh ri H'Batsêba chon mon chŭn muh măt ta neh, mbah ma hađăch, jêh ri lah: "Ăn hađăch kôranh gâp mro mrăng." 32Hađăch David lah: "Kuăl hom ma gâp, kôranh ƀư brah Y-Sadôk, kôranh nơm mbơh lor Y-Nathan, jêh ri Y-Bênaya, kon buklâu Y-Jêhôida." Pôri khân păng văch tât ta năp măt hađăch. 33Jêh nây, hađăch lah ma khân păng, "Leo ndrel ma khân may phung oh mon kôranh khân may, jêh ri ăn Y-Salômôn, kon buklâu gâp, ncho seh bri gâp nơm, jêh ri njŭn păng tât ta ƀon Gihôn. 34Gŭ ta nây, kôranh ƀư brah Y-Sadôk jêh ri kôranh nơm mbơh lor Y-Nathan, tŏ dak ƀâu kah ma păng ƀư hađăch phung Israel. Jêh nau nây, khân may mra uh nŭng ăn nteh jêh ri nter, lah: 'Hađăch Salômôn mro mrăng! 35Jêh ri khân may mra hăn hao tĭng ndô̆ păng, jêh nây păng mra văch gŭ ta sưng hađăch gâp; yorlah păng mra jêng hađăch ntrok gâp. Gâp săch jêh păng ăn jêng kôranh chiă uănh phung Israel jêh ri phung Yuda." 36Y-Bênaya, kon buklâu Y-Jêhôida, plơ̆ sĭt lah ma hađăch, "Amen! Dăn ma Yêhôva Brah Ndu hađăch kôranh gâp ŭch lah tâm ban pô nây đŏng. 37Tâm ban Yêhôva gŭ jêh ndrel ma hađăch kôranh gâp, pônây đŏng ăn păng gŭ ndrel ma Y-Salômôn, jêh ri ăn sưng hađăch păng jêng toyh lơn ma sưng Hađăch David, jêng kôranh gâp! 38Pôri kôranh ƀư brah Y-Sadôk, kôranh nơm mbơh lor Y-Nathan, Y-Bênaya kon buklâu Y-Jêhôida, phung Chêrithit, jêh ri phung Pêlêthit trŭnh hăn jêh ri ăn Y-Salômôn ncho seh bri Hađăch David, jêh nây njŭn leo păng rlet ma ƀon Gihôn. 39Ta nây kôranh ƀư brah Y-Sadôk sŏk nke dak ƀâu kah tă tâm ngih bok jêh ri tŏ ta Y-Salômôn. Jêh ri khân păng uh nŭng, lĕ rngôch phung ƀon lan nter lah: "Hađăch Salômôn mro mrăng!" 40Lĕ rngôch phung ƀon lan hăn hao tĭng ndô̆ păng uh n'hôm jêh ri hâk răm ngăn kŏ tât neh ntu n'gơ ma nteh khân păng. 41Y-Adônija jêh ri lĕ rngôch phung păng jă gŭ ndrel ma păng tăng nau nây dôl khân păng lôch jêh nau nhêt sông nây. Nôk nây Y-Jôap tăng nteh nŭng, păng lah. "Moh nteh tâm ƀon gâp tăng nây? 42Dôl păng hôm e ngơi, aơ Y-Jônathan, kon buklâu kôranh ƀư brah Y-Abiathar tât; jêh ri Y-Adônija lah: "Lăp hom, yorlah may jêng du huê bunuyh khư dơi leo nau mhe mhan ueh." 43Y-Jônathan plơ̆ lah ma Y-Adônija: " Mâu ôh, yorlah Hađăch David kôranh he, njêng jêh Y-Salômôn hađăch; 44Hađăch prơh hăn jêh ndrel ma păng kôranh ƀư brah Y-Sadôk, kôranh nơm mbơh lor Y-Nathan, Y-Bênaya kon buklâu Y-Jêhôida, jêh ri phung Chêrêthit nđâp ma phung Pêlêthit; jêh ri khân păng ăn păng ncho seh bri hađăch. 45Kôranh ƀư brah Y-Sadôk jêh ri kôranh nơm mbơh lor Y-Nathan tŏ jêh dak ƀâu kah ta păng ăn jêng hađăch ta ƀon Gihôn; tă bơh nây khân păng hăn hao ma nau hâk răm kŏ tât ƀon geh nteh drơu drơu. Nây ro yơh jêng nteh khân may hŏ tăng. 46Y-Salômôn gŭ jêh ta sưng hađăch. 47Jêh ta nây phung oh mon hađăch văch tât mŏt ton ma hađăch David kôranh he, lah: 'Dăn ma Brah Ndu may njêng amoh Y-Salômôn lư n'găr lơn ma amoh may, jêh ri njêng sưng hađăch păng toyh lơn ma sưng hađăch may.' Jêh ri hađăch nơm chon mon ta kalơ sưng bêch păng. 48Jêh ri hađăch nơm lah tâm ban đŏng, 'Mŏt ton ma Yêhôva Brah Ndu phung Israel, nơm ăn kon buklâu gâp gŭ ta sưng hađăch gâp nar aơ, măt gâp nơm saơ nau nây!" 49Nôk nây, lĕ rngôch phung râng nhêt sông ndrel ma Y-Adônija râm nsâr dadê jêh ri ăp nơm dâk sĭt êng êng. 50Y-Adônija klach ma Y-Salômôn. Păng dâk hăn sĭt jêh ri kuăn ta nke nơng. 51Geh bunuyh hăn nkoch ma Y-Salômôn gĭt nau nây, pô aơ: "Aơ, Y-Adônija klach ma Y-Salômôn; ri păng hŏ kuăn ta nke nơng, lah: "Ăn Hađăch Salômôn ton sơm ma gâp ê lor ma păng mâu mra nkhĭt ôh oh mon păng ma đao." 52Jêh ri Y-Salômôn lah: "Tơlah păng mpơl păng nơm du huê bu nuyh mleh ngăn, mâu geh ôh du mbrai chhŏk păng mra rŭng ôh ta neh; tơlah geh saơ nau mhĭk tâm păng, nanê̆ păng mra khĭt. 53Y-Salômôn prơh bunuyh hăn leo păng jŭr bơh nơng ƀư brah. Păng chon mon mbah tra năp Hađăch Salômôn; jêh ri Y-Salômôn lah ma păng: "Sĭt hom rlet ma ngih may."