1

Đời Sa-lô-môn trị vì

(Từ đoạn 1 đến đoạn 11)

Buổi già của Đa-vít. – A-đô-ni-gia muốn làm vua. – Đa-vít chọn Sa-lô-môn nối ngôi mình

1 Vua Đa-vít đã già, tuổi cao; và mặc dầu người ta đắp áo cho người, cũng không thể ấm được. 2 Các tôi tớ người nói với người rằng: Xin tìm cho vua chúa tôi một gái trẻ đồng trinh, để hầu hạ vua và săn sóc vua. Nàng sẽ nằm trong lòng vua, thì vua chúa tôi có thể ấm được. 3 Vậy người ta tìm trong khắp địa phận Y-sơ-ra-ên một người gái trẻ đẹp, và gặp được A-bi-sác, người Su-nem, dẫn nàng đến cùng vua. 4 Người gái trẻ nầy rất là lịch sự. Nàng săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua không thân cận nàng.
5 Vả, A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, tự tôn mà rằng: Ta sẽ làm vua. Người sắm xe và quân kị, cùng năm mươi người chạy trước mặt mình. 6 Cha người chẳng hề phiền lòng người mà hỏi rằng: Cớ sao mầy làm như vậy? --- Vả lại, A-đô-ni-gia rất đẹp, sanh ra kế sau Áp-sa-lôm. 7 Người bàn tính với Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia và với thầy tế lễ A-bia-tha; hai người theo phe A-đô-ni-gia và giúp đỡ người. 8 Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc và Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, Na-than, thầy tiên tri, Si-mê-i, Rê-i, và các dõng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia. 9 A-đô-ni-gia dâng những chiên, bò, và bò con mập bên hòn đá Xô-hê-lết, ở cạnh giếng Ên-Rô-ghên; rồi mời anh em mình, là các con trai của vua, và hết thảy những người Giu-đa phục sự vua. 10 Nhưng người chẳng mời Na-than, là đấng tiên tri, Bê-na-gia, các dõng sĩ, cùng Sa-lô-môn, em mình.
11 Bấy giờ, Na-than nói với Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn, mà rằng: Bà há chẳng hay rằng A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã làm vua, mà Đa-vít, chúa ta, chẳng hay biết sao? 12 Thế thì, bây giờ, hãy nghe; tôi sẽ cho bà một kế để bà cứu mạng sống mình và mạng sống của Sa-lô-môn. 13 Hãy đi ra mắt vua Đa-vít, và tâu rằng: Ôi vua, chúa tôi! Chúa há chẳng có thề cùng con đòi của chúa rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn ắt sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta, hay sao? Vậy, cớ sao A-đô-ni-gia trị vì? 14 Trong lúc bà tâu với vua như vậy, thì chính tôi cũng sẽ đi vào sau, làm cho quả quyết các lời của bà.
15 Vậy, Bát-Sê-ba đi đến cùng vua, tại trong phòng. Vua đã già lắm có A-bi-sác, người Su-nem, hầu hạ người. 16 Bát-Sê-ba cúi mình xuống và lạy trước mặt vua. Vua hỏi rằng: Ngươi muốn chi? 17 Bà tâu rằng: Chúa tôi ôi! chúa đã nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúa thề cùng con đòi của chúa rằng: Sa-lô-môn con trai ngươi sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta. 18 Ôi vua chúa tôi! Nhưng bây giờ, A-đô-ni-gia làm vua, mà chúa chẳng biết chi đến. 19 Người lại có giết bò đực, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cũng có mời hết thảy các vương tử với A-bia-tha, thầy tế lễ, và Giô-áp, quan tổng binh; nhưng người không mời Sa-lô-môn, kẻ tôi tớ vua. 20 Ôi vua chúa tôi! Cả Y-sơ-ra-ên đều xây mắt về vua, đợi vua cho họ biết ai là người kế vua phải ngồi trên ngai của vua, là chúa tôi. 21 Chẳng vậy, khi vua chúa tôi an giấc với các tổ phụ, thì tôi và con trai tôi là Sa-lô-môn sẽ bị xử như kẻ có tội.
22 Bà đương còn tâu với vua, thì tiên tri Na-than đến. 23 Người ta đến thưa cùng vua rằng: Nầy có tiên tri Na-than. Na-than ra mắt vua, sấp mình xuống trước mặt người mà lạy, 24 và nói rằng: Ôi vua chúa tôi! Có phải vua đã phán rằng: A-đô-ni-gia sẽ trị vì kế ta và ngồi trên ngai ta, chăng? 25 Thật vậy, ngày nay, người đã đi xuống giết bò, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cùng mời hết thảy các vương tử, quan tướng, và thầy tế lễ A-bia-tha; kìa, họ ăn uống tại trước mặt người, và la lên rằng: A-đô-ni-gia vạn tuế! 26 Còn tôi là kẻ tôi tớ vua, thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, và Sa-lô-môn, tôi tớ vua, thì người chẳng có mời. 27 Việc nầy há phải bởi vua chúa tôi mà ra? Và lại vua không cho các tôi tớ vua biết ai là người kế vua, phải ngồi trên ngai của vua chúa tôi.
28 Vua Đa-vít đáp rằng: Hãy gọi Bát-Sê-ba cho ta. Bà vào và đứng trước mặt vua. 29 Đa-vít bèn thề mà rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã giải cứu mạng sống ta khỏi các hoạn nạn! 30 Ta nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà thề cùng ngươi rằng: Quả hẳn Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ trị vì kế ta, nó sẽ ngồi trên ngai thế cho ta; thì ngày nay ta sẽ làm hoàn thành điều đó. 31 Bát-Sê-ba cúi mặt xuống đất và lạy trước mặt vua, mà tâu rằng: Nguyện vua Đa-vít, chúa tôi, vạn tuế!
32 Đoạn, vua Đa-vít nói: Hãy gọi cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa. Mấy người ấy bèn ra mắt vua. 33 Rồi vua nói với họ rằng: Hãy đem các đầy tớ của chủ các ngươi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, lên cỡi con la của ta, rồi đưa nó đến Ghi-hôn. 34 Ở đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than phải xức dầu cho người làm vua Y-sơ-ra-ên. Đoạn, các ngươi hãy thổi kèn lên mà hô rằng: 35 Vua Sa-lô-môn vạn tuế! Các ngươi sẽ theo sau người trở lên, người sẽ đến ngồi trên ngai ta, và trị vì thế cho ta. Ấy là người mà ta đã lập làm vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
36 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa tâu cùng vua rằng: A-men! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua chúa tôi, cũng phán định như vậy. 37 Đức Giê-hô-va đã ở cùng vua chúa tôi thể nào, nguyện Ngài cũng ở cùng Sa-lô-môn thể ấy, và khiến ngôi người còn cao trọng hơn ngôi của vua Đa-vít, là chúa tôi! 38 Đoạn, thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít, đều đi xuống, đỡ Sa-lô-môn lên cỡi con la của vua Đa-vít, rồi đưa người đến Ghi-hôn. 39 Thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng dầu trong Đền tạm, và xức cho Sa-lô-môn. Người ta thổi kèn, cả dân sự đều hô lên rằng: Vua Sa-lô-môn vạn tuế! 40 Chúng đều theo người đi lên, thổi sáo, và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất rúng động bởi tiếng la của họ.
41 A-đô-ni-gia và hết thảy kẻ dự tiệc với mình đều nghe tiếng nầy khi vừa ăn xong. Lúc Giô-áp nghe tiếng kèn, thì nói: Sao trong thành có tiếng xôn xao ấy? 42 Người hãy còn nói, kìa Giô-na-than, con trai thầy tế lễ A-bia-tha, chợt đến. A-đô-ni-gia nói với người rằng: Hãy vào, vì ngươi là một tay dõng sĩ, chắc ngươi đem những tin lành. 43 Nhưng Giô-na-than đáp với A-đô-ni-gia rằng: Thật trái hẳn. Vua Đa-vít, chúa chúng ta, đã lập Sa-lô-môn làm vua. 44 Vua có sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít cùng người Phê-lê-thít đi theo người, và họ đã đỡ người lên cỡi con la của vua. 45 Đoạn, tại Ghi-hôn, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho người làm vua; họ đã từ đó trở lên cách reo mừng, và cả thành đều vang động. Đó là tiếng xôn xao mà các ông đã nghe. 46 Lại, Sa-lô-môn đã ngồi trên ngôi nước; 47 các tôi tớ của vua đến chúc phước cho vua Đa-vít, chúa chúng ta, mà tâu rằng: Nguyện Đức Chúa Trời của vua làm cho danh Sa-lô-môn tôn vinh hơn danh của vua, và khiến cho ngôi người cao trọng hơn ngôi của vua! Rồi vua cúi lạy nơi giường mình; 48 và có nói như vầy: Đáng khen ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài có ban một người để ngồi trên ngôi của tôi mà mắt tôi xem thấy.
49 Bấy giờ, hết thảy các người dự tiệc với A-đô-ni-gia đều bắt sợ hãi, đứng dậy, ai đi đường nấy. 50 A-đô-ni-gia cũng sợ Sa-lô-môn, đứng dậy, chạy nắm các sừng bàn thờ. 51 Có người đến thuật cho Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ, mà nói rằng: Hôm nay, vua Sa-lô-môn hãy thề với tôi rằng vua sẽ không giết đầy tớ người bằng gươm. 52 Sa-lô-môn đáp rằng: Nếu người ăn ở ra người tử tế, thì chẳng một sợi tóc nào của người sẽ rụng xuống đất; bằng có thấy sự ác nơi người, ắt người sẽ chết. 53 Vua Sa-lô-môn sai kẻ đem người xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia đến sấp mình xuống trước mặt Sa-lô-môn; Sa-lô-môn bèn nói với người rằng: Hãy trở về nhà ngươi.

1

H'Abisak Mă Bruă kơ Y-Đawit

1Mtao Đawit mduôn leh. Wăt tơdah arăng bi hơô ñu hŏng lu čhiăm ao, ñu amâo mâo klei mđao ôh. 2Kyua anăn phung dĭng buăl ñu lač kơ ñu, “Brei arăng duah kơ khua kâo mtao sa čô mniê êra hrông, leh anăn brei gơ̆ mă bruă kơ mtao leh anăn kiă kriê ñu. Brei gơ̆ đih ti đah da ih, čiăng kơ khua kâo mtao dưi mâo klei mđao.” 3Snăn diñu duah sa čô mniê êra siam hlăm tar ƀar čar Israel, leh anăn ƀuh H'Abisak mniê Sunamit, leh anăn atăt ba gơ̆ kơ mtao. 4Mniê êra anăn siam snăk; leh anăn gơ̆ jing pô kiă kriê mtao leh anăn mă bruă kơ ñu, ƀiădah mtao amâo dôk hŏng gơ̆ ôh.

Y-Adônija Plah Jhưng Mtao

5 Y-Adônija anak êkei H'Hagit bi mđĭ ñu pô, lač, “Kâo srăng jing mtao.” Ñu mkra kơ ñu pô lu boh êdeh aseh leh anăn phung đĭ aseh, leh anăn êma pluh čô êran ti anăp ñu. 6Ama ñu amâo tuôm bi ênguôt ñu ôh hŏng klei êmuh, “Si ngă ih ngă snei snăn lĕ?” Ñu jing sa čô êkei msĕ mơh kƀăt snăk. Arăng kkiêng kơ ñu êdei kơ Y-Apsalôm. 7Ñu bi trông čhai hŏng Y-Jôap anak êkei Y-Sêruia leh anăn hŏng Y-Abiathar khua ngă yang. Digơ̆ tui hlue Y-Adônija leh anăn đru ñu. 8Ƀiădah Y-Sadôk khua ngă yang, Y-Bênaya anak êkei Y-Jêhôida, Y-Nathan khua pô hưn êlâo, Y-Simei, Y-Rei, leh anăn phung kahan jhŏng ktang Y-Đawit amâo bi mguôp ôh hŏng Y-Adônija.
9Y-Adônija ngă yang hŏng biăp, êmô, leh anăn êđai êmô êmŏng ti djiêu Boh Tâo Sôhêlet, giăm akŏ êa Ên-Rôgel, leh anăn ñu jak jih jang phung ayŏng adei ñu phung anak êkei mtao, leh anăn jih jang phung khua Yuđa mă bruă kơ mtao. 10Ƀiădah ñu amâo jak ôh Y-Nathan khua pô hưn êlâo, Y-Bênaya, phung kahan jhŏng ktang kăn jak Y-Salômôn adei ñu rei.
11 Hlăk anăn Y-Nathan lač kơ H'Batsêba amĭ Y-Salômôn, “Ih amâo tuôm hmư̆ hĕ kơ Y-Adônija anak êkei H'Hagit jing leh mtao, leh anăn khua drei Y-Đawit amâo thâo ôh klei anăn? 12Snăn ară anei hriê bĕ, brei kâo kčĕ kơ ih, čiăng kơ ih dưi bi mtlaih klei hdĭp ih pô leh anăn klei hdĭp anak êkei ih Y-Salômôn. 13Nao mtam kơ Mtao Đawit leh anăn lač kơ ñu, ‘Ơ khua kâo mtao, amâo djŏ hĕ ih kat asei leh hŏng dĭng buăl mniê ih, lač, “Y-Salômôn anak êkei ih srăng kiă kriê čuê kâo, leh anăn ñu srăng dôk gŭ ti jhưng mtao kâo?” Snăn si ngă Y-Adônija jing hĕ mtao?’ 14Êjai ih ăt dôk blŭ hŏng mtao, kâo msĕ mơh srăng mŭt êdei kơ ih leh anăn bi sĭt klei ih blŭ.”
15Snăn H'Batsêba nao kơ mtao hlăm adŭ ñu (mtao mduôn snăk leh, leh anăn H'Abisak mniê Sunamit dôk mă bruă kơ mtao). 16H'Batsêba buôn leh anăn kkuh kơ mtao, leh anăn mtao lač, “Ya ih čiăng?” 17Gơ̆ lač kơ ñu, “Ơ khua kâo, ih kat asei leh kơ dĭng buăl mniê ih hŏng Yêhôwa Aê Diê ih, lač, ‘Y-Salômôn anak êkei ih srăng kiă kriê čuê kâo, leh anăn ñu srăng dôk gŭ ti jhưng mtao kâo.’ 18Leh anăn ară anei Y-Adônija jing mtao, wăt tơđah ih, Ơ khua kâo mtao, amâo thâo ôh klei anăn. 19Ñu ngă yang leh hŏng êmô, êđai êmô êmŏng, leh anăn biăp lu snăk, leh anăn jak leh jih jang phung anak êkei mtao, Y-Abiathar khua ngă yang, leh anăn Y-Jôap khua kahan; ƀiădah ñu amâo jak ôh Y-Salômôn dĭng buăl ih. 20Leh anăn ară anei, Ơ khua kâo mtao, ală jih jang phung Israel dôk dlăng kơ ih, čiăng kơ ih srăng hưn kơ diñu hlei pô srăng dôk ti jhưng mtao khua kâo mtao čuê ñu. 21Tơdah amâo djŏ snăn ôh, tơdah khua kâo mtao djiê dôk mbĭt hŏng phung aê ñu, arăng srăng yap kâo leh anăn anak êkei kâo Y-Salômôn jing phung roh.”
22Êjai gơ̆ ăt dôk blŭ hŏng mtao, khua pô hưn êlâo Y-Nathan mŭt, 23leh anăn arăng hưn kơ mtao, “Nĕ anei khua pô hưn êlâo Y-Nathan.” Leh anăn tơdah ñu truh leh ti anăp mtao, ñu buôn kkuh kơ mtao kŭp ƀô̆ ti lăn. 24Y-Nathan lač, “Ơ khua kâo mtao, ih tuôm lač mơ̆ ‘Y-Adônija srăng kiă kriê čuê kâo, leh anăn ñu srăng dôk gŭ ti jhưng mtao kâo’? 25Kyuadah ñu trŭn nao leh hruê anei ngă yang leh hŏng êmô, êđai êmô êmŏng, leh anăn biăp lu snăk, leh anăn jak leh jih jang phung anak êkei mtao, Y-Jôap khua kơ phung kahan, leh anăn khua ngă yang Y-Abiathar; leh anăn nĕ anei, diñu ƀơ̆ng huă leh anăn mnăm ti anăp ñu, leh anăn ur lač, ‘Mtao Adônija lă lar!’ 26Ƀiădah ñu amâo jak ôh kâo dĭng buăl ih, leh anăn khua ngă yang Y-Sadôk, leh anăn Y-Bênaya anak êkei Y-Jêhôida, leh anăn dĭng buăl ih Y-Salômôn. 27Djŏ mơ̆ khua kâo mtao mtă leh klei anei, leh anăn amâo hưn ôh kơ phung dĭng buăl ih hlei pô srăng dôk gŭ ti jhưng mtao khua kâo čuê ñu?”

Klei Mjing Y-Salômôn Mtao

28Leh anăn Mtao Đawit lŏ wĭt lač, “Iêu H'Batsêba kơ kâo.” Snăn gơ̆ hriê mŭt ti anăp mtao leh anăn dôk dơ̆ng ti anăp mtao. 29Mtao kat asei lač, “Tui si Yêhôwa dôk hdĭp, pô bi tui leh mngăt kâo kbiă mơ̆ng jih jang klei knap kâo, 30tui si kâo kat asei leh kơ ih hŏng Yêhôwa Aê Diê Israel, lač, ‘Y-Salômôn anak êkei ih srăng kiă kriê čuê kâo, leh anăn ñu srăng dôk gŭ ti jhưng mtao kâo hrô kâo;’ msĕ snăn kâo srăng ngă hruê anei.” 31Leh anăn H'Batsêba buôn kŭp ƀô̆ ti lăn, kkuh kơ mtao, leh anăn lač, “Brei khua kâo Mtao Đawit lă lar.”
32Mtao Đawit lač, “Iêu kơ kâo khua ngă yang Y-Sadôk, khua pô hưn êlâo Y-Nathan, leh anăn Y-Bênaya anak êkei Y-Jêhôida.” Snăn digơ̆ truh ti anăp mtao. 33Mtao lač kơ digơ̆, “Mă mbĭt hŏng diih phung dĭng buăl khua diih, leh anăn brei Y-Salômôn anak êkei kâo đĭ aseh dliê kâo pô, leh anăn atăt ba ñu kơ ƀuôn Gihôn; 34leh anăn brei khua ngă yang Y-Sadôk leh anăn khua pô hưn êlâo Y-Nathan trôč êa ƀâo mngưi kơ ñu tinăn brei jing mtao kơ phung Israel. Leh anăn brei diih ayŭ ki leh anăn ur lač, ‘Mtao Salômôn lă lar!’ 35Leh anăn brei diih đĭ hriê tui hlue ñu, leh anăn ñu srăng hriê dôk gŭ ti jhưng mtao kâo; kyuadah ñu srăng jing mtao hrô kâo. Kâo čuăn leh kơ ñu brei jing khua kiă kriê phung Israel leh anăn phung Yuđa.” 36Y-Bênaya anak êkei Y-Jêhôida lŏ wĭt lač kơ mtao, “Amen! Akâo kơ Yêhôwa Aê Diê khua kâo mtao lač msĕ snăn. 37Msĕ si Yêhôwa dôk leh mbĭt hŏng khua kâo mtao, snăn mơh brei ñu dôk mbĭt hŏng Y-Salômôn, leh anăn brei jhưng mtao ñu jing prŏng hĭn kơ jhưng mtao khua kâo Mtao Đawit.”
38Snăn khua ngă yang Y-Sadôk, khua pô hưn êlâo Y-Nathan, Y-Bênaya anak êkei Y-Jêhôida, leh anăn phung Čhêrêthit leh anăn phung Pêlêthit trŭn nao leh anăn brei Y-Salômôn đĭ aseh dliê Mtao Đawit, leh anăn atăt ba ñu kơ ƀuôn Gihôn. 39Ti anăn khua ngă yang Y-Sadôk mă ki êa ƀâo mngưi mơ̆ng sang čhiăm leh anăn trôč ti Y-Salômôn. Leh anăn diñu ayŭ ki, leh anăn jih jang phung ƀuôn sang ur lač, “Mtao Salômôn lă lar!” 40Jih jang phung ƀuôn sang đĭ nao tui hlue ñu, ayŭ đĭng buôt leh anăn hơ̆k mơak snăk tơl lăn ala mgei hŏng ênai diñu.
41Y-Adônija leh anăn jih jang phung ñu jak dôk mbĭt hŏng ñu hmư̆ klei anăn êjai digơ̆ bi ruê̆ klei huă mnăm anăn. Tơdah Y-Jôap hmư̆ ênai ki, ñu lač, “Ya ênai kâo hmư̆ anăn hlăm ƀuôn?” 42Êjai ñu ăt dôk blŭ, nĕ anei Y-Jônathan anak êkei khua ngă yang Y-Abiathar truh; leh anăn Y-Adônija lač, “Mŭt bĕ, kyuadah ih jing sa čô mnuih năng leh anăn ba klei mrâo mrang jăk.” 43Y-Jônathan lŏ wĭt lač kơ Y-Adônija, “Hơăi, kyuadah khua drei Mtao Đawit mjing leh Y-Salômôn mtao; 44leh anăn mtao tiŏ nao leh mbĭt hŏng gơ̆ khua ngă yang Y-Sadôk, khua pô hưn êlâo Y-Nathan, Y-Bênaya anak êkei Y-Jêhôida, leh anăn phung Čhêrêthit leh anăn phung Pêlêthit; leh anăn diñu brei gơ̆ đĭ aseh dliê mtao. 45Khua ngă yang Y-Sadôk leh anăn khua pô hưn êlâo Y-Nathan trôč leh êa ƀâo mngưi ti gơ̆ brei jing mtao ti ƀuôn Gihôn; leh anăn mơ̆ng anăn diñu đĭ nao hŏng klei hơ̆k mơak tơl ƀuôn mâo ênai hao hao. Anăn yơh jing ênai diih hmư̆ leh. 46Y-Salômôn dôk gŭ leh ti jhưng mtao. 47Êbeh kơ anăn phung dĭng buăl mtao hriê čiăng hơêč hmưi kơ khua drei Mtao Đawit, lač, ‘Akâo kơ Aê Diê ih mjing anăn Y-Salômôn hing ang hĭn kơ anăn ih, leh anăn mjing jhưng mtao ñu prŏng hĭn kơ jhưng mtao ih.’ Leh anăn mtao pô buôn ti dlông jhưng pĭt ñu. 48Leh anăn mtao lač msĕ mơh, ‘Mpŭ mni kơ Yêhôwa Aê Diê phung Israel, pô brei sa čô anak êkei kâo dôk gŭ ti jhưng mtao kâo hruê anei, ală kâo pô ƀuh klei anăn.’ ”
49Leh anăn jih jang phung Y-Adônija jak ktư̆ yơ̆ng leh anăn kgŭ, leh anăn grăp čô wĭt mdê mdê. 50Y-Adônija huĭ kơ Y-Salômôn. Ñu kgŭ đuĕ wĭt leh anăn djă ti ki knưl. 51Arăng hưn kơ Y-Salômôn, “Nĕ anei Y-Adônija huĭ kơ mtao Salômôn, kyuadah nĕ anei ñu djă leh ti ki knưl, lač, ‘Brei Mtao Salômôn kat asei kơ kâo êlâo hĭn kơ ñu amâo srăng bi mdjiê ôh dĭng buăl ñu hŏng đao gưm.’ ” 52Leh anăn Y-Salômôn lač, “Tơđah ñu bi êdah ñu pô sa čô mnuih ênuah, amâo mâo sa aruăt ƀŭk ñu srăng luh ti lăn ôh; ƀiădah tơdah arăng ƀuh klei ƀai hlăm ñu, ñu srăng djiê.” 53Snăn Mtao Salômôn tiŏ nao mnuih leh anăn atăt ba ñu trŭn mơ̆ng knưl. Ñu hriê leh anăn kkuh kơ Mtao Salômôn; leh anăn Y-Salômôn lač kơ ñu, “Wĭt bĕ kơ sang ih.”