22

A-háp và Giô-sa-phát tranh chiến với dân Sy-ri

1 Trong ba năm Sy-ri và Y-sơ-ra-ên không có giặc. 2 Năm thứ ba, Giô-sa-phát, vua Giu-đa, đi đến cùng vua Y-sơ-ra-ên. 3 Vua Y-sơ-ra-ên nói với tôi tớ mình rằng: Các ngươi há chẳng biết rằng Ra-mốt trong Ga-la-át thuộc về chúng ta sao? Chúng ta lại làm thinh chẳng rứt nó khỏi tay vua Sy-ri sao! 4 Đoạn, người nói với Giô-sa-phát rằng: Vua muốn đến cùng ta đặng đánh lấy Ra-mốt trong Ga-la-át chăng? Giô-sa-phát đáp với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi như ông; dân sự tôi như dân sự ông; và ngựa tôi như ngựa của ông.
5 Song Giô-sa-phát nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi xin ông phải cầu vấn Đức Giê-hô-va trước đã. 6 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên nhóm các tiên tri lại, số bốn trăm người, mà hỏi rằng: Ta có nên đi đánh Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Chúng đáp rằng: Hãy đi lên; Chúa sẽ phó nó vào tay vua. 7 Nhưng Giô-sa-phát tiếp rằng: Ở đây còn có đấng tiên tri nào khác của Đức Giê-hô-va để chúng ta cầu vấn người ấy chăng? 8 Vua Y-sơ-ra-ên đáp với Giô-sa-phát rằng: Còn có một người, tên là Mi-chê, con trai của Giêm-la; nhờ người ấy ta có thể cầu vấn Đức Giê-hô-va; nhưng tôi ghét người, vì người chẳng nói tiên tri lành về tôi, bèn là dữ đó thôi. Giô-sa-phát nói rằng: Xin vua chớ nói như vậy. 9 Vua Y-sơ-ra-ên bèn đòi một hoạn quan mà bảo rằng: Hãy lập tức mời Mi-chê, con trai Giêm-la, đến.
10 Vả, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, mỗi người đều mặc đồ triều phục, đương ngồi trên một cái ngai tại trong sân đạp lúa, nơi cửa thành Sa-ma-ri; và hết thảy tiên tri nói tiên tri trước mặt hai vua. 11 Sê-đê-kia, con trai Kê-na-na, làm lấy những sừng bằng sắt, và nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Với các sừng nầy, ngươi sẽ báng dân Sy-ri cho đến khi diệt hết chúng nó. 12 Và hết thảy tiên tri đều nói một cách, mà rằng: Hãy đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át; vua sẽ được thắng, vì Đức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua.
13 Vả, sứ giả đã đi mời Mi-chê, nói cùng người rằng: Những tiên tri đều đồng lòng báo cáo sự lành cho vua; tôi xin ông cũng hãy lấy lời như lời của họ mà báo cáo điều lành. 14 Nhưng Mi-chê đáp rằng: Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống mà thề, ta sẽ báo cáo điều gì Đức Giê-hô-va phán dặn ta. 15 Khi người đã đến cùng vua, vua bèn hỏi rằng: Hỡi Mi-chê, chúng ta có nên đi hãm đánh Ra-mốt trong Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Mi-chê đáp: Hãy đi, vua sẽ được thắng; Đức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua. 16 Nhưng vua nói với người rằng: Biết bao lần ta đã lấy lời thề buộc ngươi chỉ khá nói chân thật với ta nhân danh Đức Giê-hô-va.
17 Bấy giờ Mi-chê đáp rằng: Tôi thấy cả Y-sơ-ra-ên bị tản lạc trên các núi, như bầy chiên không có người chăn; và Đức Giê-hô-va phán rằng: Những kẻ ấy không có chủ; ai nấy khá trở về nhà mình bình yên.
18 Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi há chẳng có nói với vua rằng người chẳng nói tiên tri lành về việc tôi, bèn là nói tiên tri dữ sao? 19 Mi-chê lại tiếp: Vậy, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: Tôi thấy Đức Giê-hô-va ngự trên ngôi Ngài và cả cơ binh trên trời đứng chầu Ngài bên hữu và bên tả. 20 Đức Giê-hô-va phán hỏi: Ai sẽ đi dụ A-háp, để người đi lên Ra-Mốt trong Ga-la-át, và ngã chết tại đó? Người trả lời cách nầy, kẻ trả lời cách khác. 21 Bấy giờ, có một thần ra đứng trước mặt Đức Giê-hô-va mà thưa rằng: Tôi sẽ đi dụ người. Đức Giê-hô-va phán hỏi thần rằng: Dụ cách nào? 22 Thần thưa lại rằng: Tôi sẽ đi và làm một thần nói dối trong miệng những tiên tri của người. Đức Giê-hô-va phán rằng: Phải, ngươi sẽ dụ người được. Hãy đi và làm như ngươi đã nói. 23 Vậy bây giờ, kìa, Đức Giê-hô-va đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên tri vua, và Đức Giê-hô-va đã phán sự dữ cho vua.
24 Bấy giờ, Sê-đê-kia, con trai của Kê-na-na, đến gần Mi-chê, vả vào má người, mà rằng: Thần của Đức Giê-hô-va có do đường nào lìa khỏi ta đặng đến nói với ngươi? 25 Mi-chê đáp: Trong ngày ngươi chạy từ phòng nầy đến phòng kia đặng ẩn lánh, thì sẽ biết điều đó.
26 Vua Y-sơ-ra-ên truyền lịnh rằng: Hãy bắt Mi-chê dẫn đến cho A-môn, quan cai thành, và cho Giô-ách, con trai của vua, 27 rồi hãy nói rằng: Vua bảo như vầy: Hãy bỏ tù người nầy, lấy bánh và nước khổ nạn mà nuôi nó cho đến khi ta trở về bình an. 28 Mi-chê tiếp rằng: Nếu vua trở về bình an thì Đức Giê-hô-va không cậy tôi phán. Người lại nói: Hỡi chúng dân! Các ngươi khá nghe ta.
29 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át với Giô-sa-phát, vua Giu-đa. 30 Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi sẽ giả dạng ăn mặc, rồi ra trận; còn vua hãy mặc áo của vua. Như vậy, vua Y-sơ-ra-ên ăn mặc giả dạng mà ra trận. 31 Vả, vua Sy-ri đã truyền lịnh cho ba mươi hai quan coi xe mình rằng: Các ngươi chớ áp đánh ai bất kỳ lớn hay nhỏ, nhưng chỉ một mình vua Y-sơ-ra-ên mà thôi. 32 Vậy, khi các quan coi xe thấy Giô-sa-phát thì nói rằng: Ấy quả thật là vua Y-sơ-ra-ên. Chúng bèn đến gần người đặng áp đánh; nhưng Giô-sa-phát kêu la lên. 33 Khi các quan coi xe thấy chẳng phải vua Y-sơ-ra-ên, thì thối lại, không đuổi theo nữa. 34 Bấy giờ, có một người tình cờ giương cung bắn vua Y-sơ-ra-ên, trúng nhằm người nơi giáp đâu lại. Vua nói cùng kẻ đánh xe mình rằng: Hãy quay cương lại, dẫn ta ra ngoài hàng quân, vì ta bị thương nặng.
35 Nhưng trong ngày đó thế trận thêm dữ dội; có người nâng đỡ vua đứng trong xe mình đối địch dân Sy-ri. Đến chiều tối vua chết; huyết của vít thương người chảy xuống trong lòng xe. 36 Lối chiều, trong hàng quân có rao truyền rằng: Ai nấy hãy trở về thành mình, xứ mình.
37 Vua băng hà là như vậy; người ta đem thây vua về Sa-ma-ri, và chôn tại đó. 38 Người ta rửa xe người tại trong ao Sa-ma-ri, là nơi những bợm buôn hương tắm, và có những chó liếm máu người, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
39 Các chuyện khác của A-háp, những công việc người làm, cái đền bằng ngà người cất, và các thành người xây, đều chép trong sử ký về các vua Y-sơ-ra-ên. 40 Vậy, A-háp an giấc cùng tổ phụ mình, và A-cha-xia, con trai người, kế vị người.

Giô-sa-phát làm vua Giu-đa

41 Năm thứ tư đời A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, thì Giô-sa-phát, con trai A-sa, lên ngôi làm vua Giu-đa. 42 Giô-sa-phát lên ngôi, tuổi được ba mươi lăm; người cai trị hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Tên của mẹ người là A-xu-ba, con gái của Si-chi. 43 Người đi theo đường của A-sa, cha người, chẳng xây bỏ đi, song làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. 44 Nhưng người không trừ bỏ các nơi cao; dân sự còn tế lễ và đốt hương tại trên các nơi cao. 45 Giô-sa-phát và vua Y-sơ-ra-ên ở hòa hảo với nhau.
46 Các truyện khác của Giô-sa-phát, dõng lực người, những giặc giã người, đều đã chép trong sử ký về các vua Giu-đa. 47 Người trừ diệt những bợm vĩ gian còn lại trong xứ từ đời A-sa, cha mình. 48 Bấy giờ, dân Ê-đôm không có vua, có một quan trấn thủ cai trị. 49 Giô-sa-phát đóng một đoàn tàu Ta-rê-si đặng đi Ô-phia chở vàng, nhưng không đi đến đó được, bởi vì tàu vỡ ra tại Ê-xi-ôn-Ghê-be. 50 A-cha-xia, con trai của A-háp, nói với Giô-sa-phát rằng: Hãy cho phép các đầy tớ ta đi tàu với các đầy tớ ông. Nhưng Giô-sa-phát không chịu. 51 Giô-sa-phát an giấc với tổ phụ mình, được chôn với họ trong thành Đa-vít, cha người, và Giô-ram, con trai người, kế vị người.

A-cha-xia làm vua Y-sơ-ra-ên

52 Năm thứ mười bảy đời Giô-sa-phát, vua Giu-đa, thì A-cha-xia, con trai A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri, và cai trị hai năm. 53 Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, đi theo con đường của cha và mẹ mình, cùng theo đường của Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, là người xui cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. 54 Người hầu việc Ba-anh và thờ lạy nó, chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cứ theo mọi sự cha người đã làm.

22

Pô Pơala Mikhayah Laĭ Lui Hlâo Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Pơtao Ahab

(2 Hră Ruai 18:2-27)

1Amăng klâo thŭn mơtam ƀu hơmâo ôh tơlơi pơblah tŏng krah ƀing Aram hăng ƀing Israel. 2Samơ̆ amăng thŭn tal klâo Yehôsaphat pơtao Yudah trŭn nao bưp pơtao ƀing Israel.
3Hlak anŭn, pơtao ƀing Israel pơhiăp hăng ƀing khua moa ñu tui anai, “Ƀing gih ƀu thâo ôh hă, plei pơnăng Ramôt-Gilead lŏm kơ ƀing ta? Yua hơget ƀing ta ƀu ngă hơget ôh kiăng mă glaĭ anih anŭn mơ̆ng pơtao Aram?”
4Tui anŭn yơh, ñu rơkâo kơ Yehôsaphat tui anai, “Rơkâo kơ ih nao hrŏm hăng kâo pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng plei pơnăng Ramôt-Gilead bĕ.”
 Yehôsaphat laĭ glaĭ kơ pơtao Israel tui anai, “Kâo hrup hăng ih mơ̆n, ƀing ling tơhan kâo ăt jing ƀing ling tơhan ih mơ̆n laih anŭn khul aseh kâo jing khul aseh ih mơ̆n.”
5Samơ̆ Yehôsaphat laĭ dơ̆ng kơ pơtao ƀing Israel tui anai, “Blung hlâo brơi kơ ƀing ta hơduah sem bĕ tơlơi Yahweh kiăng.”
6Tui anŭn, pơtao ƀing Israel iâu rai ƀing pô pơala, kơplăh wăh pă̱-rơtuh čô, laih anŭn tơña kơ ƀing gơ̆ tui anai, “Kâo năng nao pơblah anih Ramôt-Gilead mơ̆ ƀôdah ƀu năng nao ôh?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Nao bĕ, yuakơ Yahweh či jao brơi kơ ih dưi hĭ kơ plei anŭn yơh, pơtao ăh.”
7Samơ̆ Yehôsaphat hơduah tơña tui anai, “Ƀu hơmâo sa čô pô pơala Yahweh pơ anih anai kiăng kơ ƀing ta dưi tơña ôh hă?”
8Pơtao ƀing Israel laĭ glaĭ kơ Yehôsaphat tui anai, “Ăt dŏ hơmâo sa čô dơ̆ng mơ̆n ta dưi hơduah tơña kơ Yahweh brơi kơ ƀing ta, samơ̆ kâo pơrơmut kơ ñu yuakơ ñu ƀu či laĭ lui hlâo tơlơi hiam klă ôh kơ kâo samơ̆ kơnơ̆ng kơ tơlơi sat đôč yơh. Ñu anŭn jing Mikhayah ană đah rơkơi Imlah yơh.”
 Yehôsaphat laĭ glaĭ tui anai, “Ơ pơtao ăh, ih ƀu năng pơhiăp tui anŭn ôh.”
9Tui anŭn, pơtao ƀing Israel iâu rai sa čô khua moa ñu laih anŭn pơtă, “Ba rai bĕ Mikhayah ană đah rơkơi Imlah ră anai mơtam.”
10Tơdang ƀing gơ̆ nao kiăng kơ ba rai pô pơala anŭn, Ahab pơtao ƀing Israel laih anŭn Yehôsaphat pơtao ƀing Yudah hlak buh khul ao pơtao gơñu, laih anŭn dŏ be̱r ƀơi grê pơtao gơñu ƀơi anih prăh pơdai jĕ jơlan mŭt nao pơ amăng ja̱ng plei Samaria, laih anŭn pơđi̱ng hơmư̆ ƀing pô pơala laĭ lui hlâo ƀơi anăp gơñu. 11Hlak anŭn, pô pơala Zidkiyah hơmâo pơkra laih khul tơki pơsơi laih anŭn ñu pơhaih tui anai, “Anai yơh jing tơlơi Yahweh laĭ: Hăng khul tơki anai yơh ƀing gih či nŭh ƀing Aram tơl ƀing gơñu răm rơngiă hĭ abih.”
12Abih bang ƀing pô pơala hrŏm hăng ñu laĭ lui hlâo kar kaĭ mơ̆n. Ƀing gơñu laĭ tui anai, “Kơsung blah bĕ plei pơnăng Ramôt-Gilead laih anŭn ih či dưi hĭ, yuakơ Yahweh yơh či jao hĭ plei anŭn amăng tơngan tơlơi dưi pơtao.”
13Pô ding kơna đuaĭ nao iâu Mikhayah laih anŭn laĭ hăng gơ̆ tui anai, “Lăng adih, abih bang ƀing pô pơala sa pran sa jua laĭ lui hlâo kơ tơlơi pơtao dưi hĭ kơ plei Ramôt-Gilead. Brơi bĕ boh hiăp ih tŭ ư hrŏm hăng boh hiăp gơñu, laih anŭn pơhiăp bĕ tơlơi či pơmơak kơ pơtao.”
14Samơ̆ Mikhayah laĭ tui anai, “Kâo ƀuăn hăng tơlơi hơdip Yahweh, kâo dưi ruai kơ ñu kơnơ̆ng hơget tơlơi Yahweh ruai laih kơ kâo đôč yơh.”
15Tơdang ñu truh, pơtao tơña tui anai, “Ơ Mikhayah hơi, ƀing gơmơi năng nao pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng plei Ramôt-Gilead mơ̆ ƀôdah ƀu năng nao ôh?”
 Ñu laĭ glaĭ, “Kơsung blah bĕ laih anŭn ih či dưi hĭ, yuakơ Yahweh či jao hĭ plei anŭn amăng tơngan ih yơh, pơtao ăh.”
16Pơtao laĭ kơ ñu tui anai, “Kâo khŏm brơi ih ƀuăn rơ̆ng hăng kâo hơdôm wơ̆t kiăng kơ ruai tơlơi sĭt amăng anăn Yahweh lĕ?”
17Giŏng anŭn, Mikhayah laĭ glaĭ tui anai, “Kâo ƀuh abih bang ƀing ling tơhan Israel čơlah đuaĭ ƀơi khul bŏl čư̆ kar hăng triu ƀu hơmâo pô wai laih anŭn Yahweh laĭ: Ƀing gơñu ƀu hơmâo khua ôh. Tui anŭn, brơi bĕ rĭm čô ƀing gơñu glaĭ pơ sang rơnŭk rơnua.”
18Pơtao ƀing Israel laĭ kơ Yehôsaphat jing pơtao ƀing Yudah tui anai, “Lăng bĕ, kâo ruai laih kơ ih, ñu ƀu či laĭ lui hlâo hiam klă kơ kâo ôh, samơ̆ kơnơ̆ng tơlơi sat đôč yơh.”
19Mikhayah laĭ dơ̆ng, “Hơnŭn yơh, hơmư̆ bĕ boh hiăp Yahweh anai: Kâo ƀuh Yahweh dŏ be̱r ƀơi grê pơtao Ñu wơ̆t hăng abih bang ƀing ling jang adai dŏ dơ̆ng ƀơi gah hơnuă laih anŭn ƀơi gah ieo jing jum dar Ñu. 20Giŏng anŭn, Yahweh tơña tui anai: Hlơi pô dưi plư Ahab nao kơsung blah anih Ramôt-Gilead kiăng kơ ñu djai hĭ pơ anih anŭn lĕ?
 “Pô anai pơphŭn tui anai, pô adih pơphŭn tui adih yơh.
21Hơnăl tuč, hơmâo sa yang bơngăt rai dŏ dơ̆ng ƀơi anăp Yahweh laih anŭn laĭ tui anai: Kâo dưi nao plư ñu.
22“Yahweh tơña dơ̆ng, ‘Plư hiư̆m pă lĕ?’
 “Ñu laĭ glaĭ tui anai, ‘Kâo či tơbiă nao jing sa yang bơngăt laih anŭn yua amăng bah abih bang ƀing pô pơala Ahab kiăng pơhiăp ƀlŏr hăng ñu yơh.’
 “Yahweh laĭ kơ ñu tui anai, ‘Ih či dưi hĭ yơh amăng tơlơi ih plư ñu. Tui anŭn, nao ngă bĕ.’ ”
23Mikhayah laĭ dơ̆ng tui anai, “Ơ pơtao ăh, tui anŭn yơh, ră anai Yahweh hơmâo pioh laih sa yang bơngăt ƀlŏr laih anŭn yua abih bang ƀing pô pơala ih kiăng kơ pơhiăp ƀlŏr hăng ih. Yahweh hơmâo pơkă laih tơlơi răm rai kơ ih.”
24Giŏng anŭn, pô pơala Zidkiyah anŭn, ană đah rơkơi Khenaanah, rai păh ƀô̆ Mikhayah laih anŭn tơña tui anai, “Hơbĭn yang bơngăt mơ̆ng Yahweh đuaĭ mơ̆ng kâo kiăng kơ pơhiăp hăng ih lĕ?”
25Mikhayah laĭ glaĭ hăng Zidkiyah tui anai, “Ih či thâo yơh ƀơi hrơi ih đuaĭ pơdŏp ih pô amăng anih gah lăm sa boh sang yuakơ ih huĭ.”
26Giŏng anŭn, pơtao ƀing Israel pơđar tui anai, “Mă bĕ Mikhayah laih anŭn ba glaĭ ñu pơ Amôn jing khua wai lăng plei anai laih anŭn pơ Yôas jing ană đah rơkơi pơtao, 27hăng pơtă kơ gơñu tui anai: Krư̆ bĕ mơnuih anai amăng sang mơnă laih anŭn anăm brơi kơ ñu ƀơ̆ng huă hơget ôh, samơ̆ kơnơ̆ng ƀañ tơpŭng laih anŭn ia mơñum đôč tơl kâo wơ̆t glaĭ rơnŭk rơnua.”
28Mikhayah pơhiăp pơklă hăng Ahab tui anai, “Tơdah ih wơ̆t glaĭ rơnŭk rơnua, sĭt Yahweh ƀu pơhiăp sĭt hăng kâo ôh.” Giŏng anŭn, ñu pơhiăp pơñen dơ̆ng hăng abih bang ƀing dŏ pơ anŭn tui anai, “Djă̱ pioh bĕ khul boh hiăp kâo, Ơ abih bang ƀing ană plei hơi!”

Pơtao Ahab Djai Ƀơi Ramôt-Gilead

(2 Hră Ruai 18:28-34)

29Tui anŭn, Ahab pơtao ƀing Israel laih anŭn Yehôsaphat pơtao ƀing Yudah đĭ nao pơ anih Ramôt-Gilead yơh. 30Pơtao ƀing Israel laĭ kơ Yehôsaphat tui anai, “Tơdang ƀing ta nao pơblah, kâo či pơhrôp hĭ kâo pô kiăng arăng ƀu thâo krăn ôh kâo, samơ̆ ih buh bĕ ao pơtao ih.” Tui anŭn yơh, pơtao ƀing Israel pơhrôp ñu pô hlâo kơ nao pơblah.
31Hlak anŭn, pơtao Aram hơmâo pơtă laih kơ klâopluh-dua čô khua git gai rơdêh aseh ñu tui anai, “Ƀing gih anăm blah hăng hlơi pô anet ƀôdah prŏng ôh, samơ̆ kơnơ̆ng blah hăng pơtao ƀing Israel đôč.” 32Tơdang ƀing khua git gai rơdêh aseh ƀuh Yehôsaphat, ƀing gơñu pơmĭn tui anai, “Sĭt yơh anŭn jing pơtao ƀing Israel.” Tui anŭn, ƀing gơñu wir nao blah gơ̆, samơ̆ Yehôsaphat ur kraih. 33Tơdang ƀing khua git gai rơdêh aseh anŭn thâo krăn kơ gơ̆ ƀu djơ̆ pơtao ƀing Israel ôh, ƀing gơñu ƀu kiaŏ mă gơ̆ dơ̆ng tah.
34Kơđai glaĭ, hơmâo ling tơhan ƀing Aram pơnăh hraŏ ñu djơ̆ hĭ pơtao ƀing Israel kơplăh wăh anih kơhơ ao pơgang gơ̆, samơ̆ pô tơhan anŭn ƀu thâo ôh anŭn jing pơtao ƀing Israel. Pơtao laĭ kơ pô gai rơdêh aseh ñu tui anai, “Wir glaĭ bĕ hăng ba kâo tơbiă mơ̆ng tơlơi pơblah anai bĕ! Kâo hơmâo ruă kơtang laih!” 35Amăng abih hrơi anŭn tơlơi pơblah kơtang biă mă laih anŭn hơmâo mơnuih djă̱ grơ̆ng brơi pơtao ƀơi rơdêh aseh kiăng kơ ñu dưi ƀuh ƀing ling tơhan Aram truh pơ hrơi klăm. Drah mơ̆ng nam rơka ñu rô trŭn amăng atur rơdêh aseh ñu laih anŭn ñu tơĭ pran yơh. 36Tơdang yang hrơi lê̆ laih, hơmâo arăng mơit tơlơi laĭ pơthâo kơ ƀing ling tơhan tui anai, “Ƀing gih glaĭ bĕ pơ plei pla tring trang gih pô!”
37Tơdơi kơ pơtao djai laih, arăng ba atâo ñu pơ plei phŭn Samaria laih anŭn dơ̱r ñu pơ anih anŭn yơh. 38Ƀing arăng ăt rao rơdêh aseh anŭn ƀơi dơnao ia amăng plei Samaria, jing anih ƀing rĭh răm mơnơi, laih anŭn khul asâo liah ƀơ̆ng drah ñu, kar hăng boh hiăp Yahweh hơmâo pơhaih laih.
39Bơ kơ khul tơlơi truh pơkŏn dơ̆ng amăng rơnŭk Ahab git gai wai lăng wơ̆t hăng abih bang tơlơi ñu ngă laih, sang pơtao ñu pơdơ̆ng đĭ hăng pơhrôp hăng bla laih anŭn khul kơđông plei ñu pơdơ̆ng đĭ, arăng čih pioh laih amăng hră bruă mơnuă ƀing pơtao Israel. 40Tơdang Ahab tơĭ pran, ană đah rơkơi ñu Ahazyah tŏ tui ñu jing pơtao.

Tơlơi Git Gai Wai Lăng Yehôsaphat Pơtao Ƀing Yudah

(2 Hră Ruai 20:31–21:1)

41Yehôsaphat ană đah rơkơi Asa jing pơtao ƀing Yudah amăng thŭn tal pă̱ Ahab ngă pơtao ƀing Israel. 42Yehôsaphat hơmâo klâopluh-rơma thŭn laih tơdang ñu jing pơtao lŏn čar Yudah laih anŭn ñu git gai wai lăng amăng plei Yerusalaim duapluh-rơma thŭn. Anăn amĭ ñu jing HʼAzubah jing ană đah kơmơi Silhi. 43Amăng abih bang tơlơi ñu rơbat tui amăng khul jơlan hiam klă ama ñu Asa hơmâo rơbat laih, laih anŭn ñu ƀu wir đuaĭ hĭ ôh mơ̆ng khul jơlan anŭn. Ñu ngă tơlơi tơpă hơnơ̆ng ƀơi anăp Yahweh. Samơ̆ khul sang anet kơkuh pơpŭ yang rơba̱ng ƀơi anih glông ñu ƀu pơrai hĭ ôh, laih anŭn ƀing ană plei ăt nao pơyơr gơnam ngă yang, čuh gơnam ƀâo mơngưi pơ khul anih anŭn mơ̆n. 44Yehôsaphat ăt dŏ rơnŭk rơnua hăng Ahab pơtao ƀing Israel mơ̆n.
45Bơ kơ khul tơlơi truh amăng rơnŭk pơtao Yehôsaphat git gai wai lăng, wơ̆t hăng khul bruă ñu pơgiŏng laih hrŏm hăng tơlơi ñu pơblah, arăng čih pioh laih amăng hră bruă mơnuă ƀing pơtao Yudah. 46Ñu ăt puh pơđuaĭ hĭ mơ̆ng lŏn čar abih ƀing đah rơkơi đah kơmơi rĭh răm amăng sang iâu yang, jing ƀing ăt dŏ amăng lŏn čar wơ̆t tơdah ama ñu Asa hơmâo puh pơđuaĭ hĭ laih ƀing gơñu amăng rơnŭk ñu wai lăng. 47Hlak anŭn, ƀing mơnuih Edôm ƀu hơmâo pơtao ôh, samơ̆ pơtao Yehôsaphat hơmâo ruah laih sa čô khua plei kiăng kơ wai lăng.
48Yehôsaphat ăt pơkra sa grup sŏng prŏng sĭ mơnia kiăng nao pơ anih Ôphir mă mah, samơ̆ ƀu thâo nao truh pơ anih anŭn ôh, yuakơ khul sŏng anŭn pơčah hĭ ƀơi anih Ezyôn-Geber. 49Hlak anŭn, Ahazyah ană đah rơkơi Ahab hơmâo laĭ laih hăng Yehôsaphat tui anai, “Brơi bĕ ƀing pơgăt sŏng kâo pơđu̱ng sŏng hrŏm hăng ƀing pơgăt sŏng ih.” Samơ̆ Yehôsaphat hơngah hĭ.
50Tơdang Yehôsaphat tơĭ pran, arăng dơ̱r ñu hrŏm hăng ƀing ơi adon ñu amăng Plei Dawid jing ơi adon ñu, laih anŭn ană đah rơkơi ñu Yehôram tŏ tui ñu jing pơtao.

Tơlơi Git Gai Wai Lăng Ahazyah Pơtao Ƀing Israel

51Ahazyah ană đah rơkơi Ahab jing pơtao ƀing Israel pơ plei phŭn Samaria amăng thŭn tal pluh-tơjuh Yehôsaphat ngă pơtao ƀing Yudah laih anŭn ñu wai lăng ƀing Israel dua thŭn. 52Ñu ngă tơlơi sat ƀai ƀơi anăp Yahweh, jing tơlơi ñu rơbat amăng khul jơlan soh sat amĭ ama ñu ngă laih hlâo adih laih anŭn amăng khul jơlan soh sat Yarobam ană đah rơkơi Nebat mơ̆n, jing pô ăt ngă brơi mơ̆n kơ ƀing Israel ngă soh tui laih. 53Ñu čuih kiăng kơ Yahweh Ơi Adai ƀing Israel hil, yuakơ ñu đuaĭ tui kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng Baal, kar hăng ama ñu hơmâo ngă laih hlâo adih yơh.