1 Trong ba năm Sy-ri và Y-sơ-ra-ên không có giặc. 2 Năm thứ ba, Giô-sa-phát, vua Giu-đa, đi đến cùng vua Y-sơ-ra-ên. 3 Vua Y-sơ-ra-ên nói với tôi tớ mình rằng: Các ngươi há chẳng biết rằng Ra-mốt trong Ga-la-át thuộc về chúng ta sao? Chúng ta lại làm thinh chẳng rứt nó khỏi tay vua Sy-ri sao! 4 Đoạn, người nói với Giô-sa-phát rằng: Vua muốn đến cùng ta đặng đánh lấy Ra-mốt trong Ga-la-át chăng? Giô-sa-phát đáp với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi như ông; dân sự tôi như dân sự ông; và ngựa tôi như ngựa của ông. 5 Song Giô-sa-phát nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi xin ông phải cầu vấn Đức Giê-hô-va trước đã. 6 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên nhóm các tiên tri lại, số bốn trăm người, mà hỏi rằng: Ta có nên đi đánh Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Chúng đáp rằng: Hãy đi lên; Chúa sẽ phó nó vào tay vua. 7 Nhưng Giô-sa-phát tiếp rằng: Ở đây còn có đấng tiên tri nào khác của Đức Giê-hô-va để chúng ta cầu vấn người ấy chăng? 8 Vua Y-sơ-ra-ên đáp với Giô-sa-phát rằng: Còn có một người, tên là Mi-chê, con trai của Giêm-la; nhờ người ấy ta có thể cầu vấn Đức Giê-hô-va; nhưng tôi ghét người, vì người chẳng nói tiên tri lành về tôi, bèn là dữ đó thôi. Giô-sa-phát nói rằng: Xin vua chớ nói như vậy. 9 Vua Y-sơ-ra-ên bèn đòi một hoạn quan mà bảo rằng: Hãy lập tức mời Mi-chê, con trai Giêm-la, đến. 10 Vả, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, mỗi người đều mặc đồ triều phục, đương ngồi trên một cái ngai tại trong sân đạp lúa, nơi cửa thành Sa-ma-ri; và hết thảy tiên tri nói tiên tri trước mặt hai vua. 11 Sê-đê-kia, con trai Kê-na-na, làm lấy những sừng bằng sắt, và nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Với các sừng nầy, ngươi sẽ báng dân Sy-ri cho đến khi diệt hết chúng nó. 12 Và hết thảy tiên tri đều nói một cách, mà rằng: Hãy đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át; vua sẽ được thắng, vì Đức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua. 13 Vả, sứ giả đã đi mời Mi-chê, nói cùng người rằng: Những tiên tri đều đồng lòng báo cáo sự lành cho vua; tôi xin ông cũng hãy lấy lời như lời của họ mà báo cáo điều lành. 14 Nhưng Mi-chê đáp rằng: Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống mà thề, ta sẽ báo cáo điều gì Đức Giê-hô-va phán dặn ta. 15 Khi người đã đến cùng vua, vua bèn hỏi rằng: Hỡi Mi-chê, chúng ta có nên đi hãm đánh Ra-mốt trong Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Mi-chê đáp: Hãy đi, vua sẽ được thắng; Đức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua. 16 Nhưng vua nói với người rằng: Biết bao lần ta đã lấy lời thề buộc ngươi chỉ khá nói chân thật với ta nhân danh Đức Giê-hô-va. 17 Bấy giờ Mi-chê đáp rằng: Tôi thấy cả Y-sơ-ra-ên bị tản lạc trên các núi, như bầy chiên không có người chăn; và Đức Giê-hô-va phán rằng: Những kẻ ấy không có chủ; ai nấy khá trở về nhà mình bình yên.⚓ 18 Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi há chẳng có nói với vua rằng người chẳng nói tiên tri lành về việc tôi, bèn là nói tiên tri dữ sao? 19 Mi-chê lại tiếp: Vậy, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: Tôi thấy Đức Giê-hô-va ngự trên ngôi Ngài và cả cơ binh trên trời đứng chầu Ngài bên hữu và bên tả.⚓20 Đức Giê-hô-va phán hỏi: Ai sẽ đi dụ A-háp, để người đi lên Ra-Mốt trong Ga-la-át, và ngã chết tại đó? Người trả lời cách nầy, kẻ trả lời cách khác. 21 Bấy giờ, có một thần ra đứng trước mặt Đức Giê-hô-va mà thưa rằng: Tôi sẽ đi dụ người. Đức Giê-hô-va phán hỏi thần rằng: Dụ cách nào? 22 Thần thưa lại rằng: Tôi sẽ đi và làm một thần nói dối trong miệng những tiên tri của người. Đức Giê-hô-va phán rằng: Phải, ngươi sẽ dụ người được. Hãy đi và làm như ngươi đã nói. 23 Vậy bây giờ, kìa, Đức Giê-hô-va đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên tri vua, và Đức Giê-hô-va đã phán sự dữ cho vua. 24 Bấy giờ, Sê-đê-kia, con trai của Kê-na-na, đến gần Mi-chê, vả vào má người, mà rằng: Thần của Đức Giê-hô-va có do đường nào lìa khỏi ta đặng đến nói với ngươi? 25 Mi-chê đáp: Trong ngày ngươi chạy từ phòng nầy đến phòng kia đặng ẩn lánh, thì sẽ biết điều đó. 26 Vua Y-sơ-ra-ên truyền lịnh rằng: Hãy bắt Mi-chê dẫn đến cho A-môn, quan cai thành, và cho Giô-ách, con trai của vua, 27 rồi hãy nói rằng: Vua bảo như vầy: Hãy bỏ tù người nầy, lấy bánh và nước khổ nạn mà nuôi nó cho đến khi ta trở về bình an. 28 Mi-chê tiếp rằng: Nếu vua trở về bình an thì Đức Giê-hô-va không cậy tôi phán. Người lại nói: Hỡi chúng dân! Các ngươi khá nghe ta. 29 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át với Giô-sa-phát, vua Giu-đa. 30 Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi sẽ giả dạng ăn mặc, rồi ra trận; còn vua hãy mặc áo của vua. Như vậy, vua Y-sơ-ra-ên ăn mặc giả dạng mà ra trận. 31 Vả, vua Sy-ri đã truyền lịnh cho ba mươi hai quan coi xe mình rằng: Các ngươi chớ áp đánh ai bất kỳ lớn hay nhỏ, nhưng chỉ một mình vua Y-sơ-ra-ên mà thôi. 32 Vậy, khi các quan coi xe thấy Giô-sa-phát thì nói rằng: Ấy quả thật là vua Y-sơ-ra-ên. Chúng bèn đến gần người đặng áp đánh; nhưng Giô-sa-phát kêu la lên. 33 Khi các quan coi xe thấy chẳng phải vua Y-sơ-ra-ên, thì thối lại, không đuổi theo nữa. 34 Bấy giờ, có một người tình cờ giương cung bắn vua Y-sơ-ra-ên, trúng nhằm người nơi giáp đâu lại. Vua nói cùng kẻ đánh xe mình rằng: Hãy quay cương lại, dẫn ta ra ngoài hàng quân, vì ta bị thương nặng. 35 Nhưng trong ngày đó thế trận thêm dữ dội; có người nâng đỡ vua đứng trong xe mình đối địch dân Sy-ri. Đến chiều tối vua chết; huyết của vít thương người chảy xuống trong lòng xe. 36 Lối chiều, trong hàng quân có rao truyền rằng: Ai nấy hãy trở về thành mình, xứ mình. 37 Vua băng hà là như vậy; người ta đem thây vua về Sa-ma-ri, và chôn tại đó. 38 Người ta rửa xe người tại trong ao Sa-ma-ri, là nơi những bợm buôn hương tắm, và có những chó liếm máu người, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán. 39 Các chuyện khác của A-háp, những công việc người làm, cái đền bằng ngà người cất, và các thành người xây, đều chép trong sử ký về các vua Y-sơ-ra-ên. 40 Vậy, A-háp an giấc cùng tổ phụ mình, và A-cha-xia, con trai người, kế vị người.
Giô-sa-phát làm vua Giu-đa
41 Năm thứ tư đời A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, thì Giô-sa-phát, con trai A-sa, lên ngôi làm vua Giu-đa. 42 Giô-sa-phát lên ngôi, tuổi được ba mươi lăm; người cai trị hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Tên của mẹ người là A-xu-ba, con gái của Si-chi. 43 Người đi theo đường của A-sa, cha người, chẳng xây bỏ đi, song làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. 44 Nhưng người không trừ bỏ các nơi cao; dân sự còn tế lễ và đốt hương tại trên các nơi cao. 45 Giô-sa-phát và vua Y-sơ-ra-ên ở hòa hảo với nhau. 46 Các truyện khác của Giô-sa-phát, dõng lực người, những giặc giã người, đều đã chép trong sử ký về các vua Giu-đa. 47 Người trừ diệt những bợm vĩ gian còn lại trong xứ từ đời A-sa, cha mình. 48 Bấy giờ, dân Ê-đôm không có vua, có một quan trấn thủ cai trị. 49 Giô-sa-phát đóng một đoàn tàu Ta-rê-si đặng đi Ô-phia chở vàng, nhưng không đi đến đó được, bởi vì tàu vỡ ra tại Ê-xi-ôn-Ghê-be. 50 A-cha-xia, con trai của A-háp, nói với Giô-sa-phát rằng: Hãy cho phép các đầy tớ ta đi tàu với các đầy tớ ông. Nhưng Giô-sa-phát không chịu. 51 Giô-sa-phát an giấc với tổ phụ mình, được chôn với họ trong thành Đa-vít, cha người, và Giô-ram, con trai người, kế vị người.
A-cha-xia làm vua Y-sơ-ra-ên
52 Năm thứ mười bảy đời Giô-sa-phát, vua Giu-đa, thì A-cha-xia, con trai A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri, và cai trị hai năm. 53 Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, đi theo con đường của cha và mẹ mình, cùng theo đường của Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, là người xui cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. 54 Người hầu việc Ba-anh và thờ lạy nó, chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cứ theo mọi sự cha người đã làm.
22
Mi-caya Catoaih Puo Ahap
1Tâng bar cumo, cruang I-sarel cớp cruang Si-ri bữn ỡt ien khễ. 2Ma toâq cumo pái, Yê-hô-saphat puo Yuda toâq sa‑óh Ahap puo I-sarel. 3Puo Ahap blớh cũai ayững atĩ án neq: “Cỗ nŏ́q hái tỡ bữn cheng ĩt loah vil Ramôt tâng cruang Ki-liat tễ puo cũai Si-ri? Yuaq vil ki la vil hái.” 4Chơ puo Ahap blớh puo Yê-hô-saphat neq: “Anhia pruam cớp hếq pỡq cheng ĩt loah vil Ramôt tỡ?” Puo Yê-hô-saphat ta‑ỡi: “Ơq, hếq pruam! Yuaq tahan hếq la tahan anhia tê, cớp aséh hếq la aséh anhia tê.” 5Chơ án pai tữm ễn chóq puo Ahap neq: “Ma nhũang lứq, cóq hái câu blớh Yiang Sursĩ voai.” 6Chơ puo Ahap arô cũai tang bỗq mán pỗn culám náq toâq rôm, cớp blớh alới neq: “O tỡ, khân cứq loŏh rachíl dŏq cheng ĩt loah vil Ramôt?” Tỗp alới ta‑ỡi: “O, têq anhia pỡq chíl! Yuaq Yiang Sursĩ yỗn anhia chíl riap.” 7Ma puo Yê-hô-saphat blớh neq: “Ntốq nâi bữn cũai tang bỗq Yiang Sursĩ tỡ, dŏq án têq blớh Yiang Sursĩ chuai hái?” 8Ahap ta‑ỡi: “Noâng bữn muoi noaq ễn, ramứh Mi-caya con samiang Im-la. Ma cứq kêt án, yuaq án tỡ nai pai muoi trỗ loâng ŏ́c o yỗn cứq; án pai níc ŏ́c tỡ o sâng.” Puo Yê-hô-saphat ta‑ỡi: “Anhia chỗi pai ngkíq!” 9Ngkíq puo Ahap arô manoaq cũai ayững atĩ án, cớp án ớn cũai ki pỡq coâiq Mi-caya toâq ramóh án sanua toâp. 10Bar náq puo acứp tampâc puo, cớp ỡt tacu tâng cachơng puo pỡ ntốq púh saro yáng tiah ngoah toong vil Sa-mari, cớp máh cũai tang bỗq Yiang Sursĩ ỡt táq ntỡng choâng moat tỗp alới. 11Bữn manoaq ramứh Sê-dakia con samiang Khê-nana ỡt cớp tỗp ki tê. Án ĩt tac táq cỡt tacoi, cớp atỡng puo Ahap neq: “Nâi! Parnai Yiang Sursĩ pai neq: ‘Mới lứq chíl tỗp Si-ri toâq crơng anâi, cớp tỗp alới cỡt pê cuchĩt nheq.’” 12Nheq tữh cũai tang bỗq canŏ́h la pai machớng ki tê neq: “Cóq anhia dững toâp máh tỗp tahan loŏh pỡq chíl vil Ramôt; lứq samoât anhia chíl riap, yuaq Yiang Sursĩ yỗn anhia chíl riap.” 13Bo ki toâp, cũai ayững atĩ puo pỡq coâiq Mi-caya toâq, cớp atỡng Mi-caya neq: “Cũai tang bỗq canŏ́h atỡng puo pai án bữn riap; ma cóq mới pai machớng alới ki tê.” 14Ma Mi-caya ta‑ỡi: “Nhơ ramứh Yiang Sursĩ ca tamoong níc, cứq pai ống santoiq Yiang Sursĩ ớn cứq pai sâng!” 15Tữ án toâq tayứng yáng moat puo Ahap, chơ Ahap blớh án neq: “Mi-caya ơi! O tỡ, khân puo Yê-hô-saphat cớp cứq pỡq chíl vil Ramôt?” Mi-caya ta‑ỡi: “O anhia pỡq chíl! Yuaq Yiang Sursĩ ễ yỗn anhia chíl riap.” 16Ma puo Ahap ta‑ỡi loah neq: “Cứq khoiq atỡng mới sa‑ữi trỗ chơ, khân mới atỡng nhơ ramứh Yiang Sursĩ, cóq mới atỡng ống ŏ́c lứq sâng.” 17Mi-caya ta‑ỡi: “Cứq hữm tỗp tahan I-sarel cỡt pláh chap nheq mpễr cóh ki, cỡt riang tỗp cữu ŏ́q cũai mantán. Cớp Yiang Sursĩ pai neq: ‘Máh cũai nâi ŏ́q cũai ayông; ngkíq yỗn alới píh chu loah ien khễ pỡ dống sũ alới bữm.’” 18Chơ puo Ahap pai chóq puo Yê-hô-saphat neq: “Hếq khoiq atỡng anhia chơ, án tỡ nai pai ŏ́c o ntrớu yỗn hếq; án pai moang ŏ́c tỡ o sâng.” 19Mi-caya pai ễn: “Ngkíq, sễq anhia tamứng santoiq Yiang Sursĩ atỡng tâng tangái nâi! Cứq khoiq hữm Yiang Sursĩ tacu tâng cachơng tâng paloŏng, cớp nheq tữh ranễng án ỡt lavíng mpễr án. 20Chơ Yiang Sursĩ blớh: ‘Noau ễ pỡq phếq Ahap yỗn án pỡq rachíl tâng vil Ramôt, chơ yỗn án cuchĩt tâng ntốq ki?’ Máh ranễng ki, án ca pai neq, án ca pai ngkíq. 21Chơ bữn muoi ranễng loŏh tayứng yáng moat Yiang Sursĩ, cớp pai neq: ‘Cứq nâi ễ pỡq phếq thũ án.’ 22Yiang Sursĩ blớh án neq: ‘Nŏ́q mới ễ táq?’ “Ranễng ki ta‑ỡi: ‘Cứq ễ pỡq táq yỗn cũai tang bỗq Ahap táq ntỡng lauq.’ Yiang Sursĩ pai: ‘Têq mới pỡq phếq thũ; lứq cỡt ŏ́c mới ễ táq.’” 23Chơ Mi-caya pai santoiq parsốt tháng, neq: “Tễ ranáq nâi la nneq, Yiang Sursĩ mian cũai tang bỗq nâi táq ntỡng lauq chóq anhia. Ma Ncháu toâp pai anhia lứq ramóh ŏ́c cuchĩt pứt!” 24Chơ Sê-dakia la cũai tang bỗq ki loŏh ramóh Mi-caya, cớp tapáh án, chơ blớh neq: “Bo léq Raviei Yiang Sursĩ loŏh tễ cứq, chơ pỡq atỡng mới?” 25Mi-caya ta‑ỡi án: “Lứq mới bữn sapúh tâng tangái mới mut tooq tâng clống dống clỡp lứq.” 26Chơ puo Ahap ớn cũai ayững atĩ án neq: “Mới cỗp Mi-caya, chơ dững án pỡq ramóh Amon la cũai sốt tâng vil nâi, cớp dững án pỡq ramóh la con puo Yô-at hỡ. 27Cớp ớn alới takễl án amut tâng cuaq, cớp yỗn án cha ống bễng mi cớp nguaiq ống dỡq miat sâng, yỗn toau cứq píh chu bữn plot ien.” 28Mi-caya pai neq: “Khân anhia bữn píh chu plot ien, ki tỡ cỡn Yiang Sursĩ atỡng cứq!” Án pai tữm ễn: “Dũ náq anhia cóq sanhữ máh santoiq cứq pai sanua!”
Ahap Cuchĩt
29Chơ Ahap puo I-sarel cớp Yê-hô-saphat puo Yuda, alới dững tỗp tahan pỡq chíl vil Ramôt tâng cruang Ki-liat. 30Puo Ahap táq ntỡng cớp puo Yê-hô-saphat neq: “Toâq hái pỡq rachíl, hếq ễ táq nan cỡt tahan miat, ma yỗn anhia tâc tampâc puo.” Chơ puo I-sarel tâc tampâc ariang tahan miat cớp loŏh rachíl. 31Ma puo Si-ri khoiq patâp pái chít la bar náq cũai dững sễ aséh rachíl neq: “Anhia chỗi chíl cũai canŏ́h, ma anhia rapuai cachĩt ống puo I-sarel sâng.” 32Toâq máh cũai dững sễ aséh rachíl hữm puo Yê-hô-saphat, alới chanchớm án la puo cũai I-sarel; ngkíq tỗp alới píh chíl án. Ma toâq án cu‑ỗi, 33cũai dững sễ aséh rachíl ki bữn dáng án la tỡ cỡn puo cũai I-sarel, chơ tỗp alới tangứt rapuai án. 34Ma bữn muoi noaq tahan tễ tỗp Si-ri pán saráh ma lơ pĩeiq puo Ahap. Saráh ki sarloâiq bân parsap au tac án sớp. Án cu‑ỗi chóq cũai dững sễ aséh rachíl neq: “Cứq chũl chơ; mới apíh sễ aloŏh tễ ntốq rachíl nâi.” 35Tâng tangái ki noau rachíl hâp lứq, ngkíq puo Ahap caniq tỗ án tâng sễ aséh rachíl to moat chu coah tahan tỗp Si-ri. Ma aham án loŏh poân nheq tâng púng sễ aséh rachíl. Toâq pên tabữ án ta-ŏh rangứh. 36Cheq mandang pât, bữn sưong ớn máh poâl tahan I-sarel ca ỡt tâng ntốq rachíl yỗn loŏh tễ ntốq ki; noau ớn neq: “Dũ náq cũai tahan cóq píh chu loah pỡ vil cớp dống án bữm!” 37Puo Ahap cuchĩt, cớp noau dững tứp án tâng ping pỡ vil Sa-mari. 38Tỗp alới ariau sễ aséh rachíl tâng dỡq amống vil Sa-mari, chơ acho yễl aham án; ma ntốq ki la ntốq máh cũai mansễm chếq tỗ dốq pỡq mpơi dỡq. Máh ranáq nâi cỡt rapĩeiq santoiq Yiang Sursĩ khoiq pai dũ ramứh. 39Máh ranáq puo Ahap táq, dếh ranáq án pasang dống puo toâq paluac achĩang, cớp máh vil án khoiq táq viang khâm, noau chĩc dŏq tâng pơ saráq atỡng tễ Ranáq Máh Puo Cũai I-sarel Khoiq Táq. 40Toâq vớt án cuchĩt chơ, Aha-sia con samiang án ễn chỗn cỡt puo pláih án.
Yê-hô-saphat Puo Yuda
41Tâng cumo pỗn Ahap cỡt puo cũai I-sarel, Yê-hô-saphat con samiang Asa chỗn cỡt puo cũai Yuda. 42Bo ki án bữn pái chít la sỡng cumo, cớp cỡt puo tâng vil Yaru-salem bar chít la sỡng cumo. Mpiq án ramứh A-suba con Sil-hi. 43Án táq dũ ranáq machớng puo Asa mpoaq án khoiq táq; án tỡ bữn chứng clĩ chóq máh ranáq ki. Án táq tanoang tapứng chóq Yiang Sursĩ, ma án tỡ bữn talốh táh máh ntốq noau cucốh sang yiang canŏ́h tâng anũol cóh; cớp máh cũai noâng dững níc crơng chiau sang cớp crơng phuom dŏq bốh sang tâng ntốq ki. 44Puo Yê-hô-saphat cớp puo cũai I-sarel táq tếc parkhán dŏq ỡt ratoi. 45Máh ranáq puo Yê-hô-saphat táq, máh ranáq án tốh rêng, cớp máh ranáq án rachíl, noau chĩc dŏq tâng pơ saráq atỡng tễ Ranáq Máh Puo Cũai Yuda Khoiq Táq. 46Án tuih aloŏh nheq máh cũai chếq tỗ, dếh mansễm dếh samiang noâng khlâiq tễ dỡi Asa mpoaq án cỡt puo; máh cũai ki dốq táq ranáq bân prông yiang canŏ́h. 47Bo ki cruang Ê-dôm ŏ́q puo, ma bữn cũai sốt dŏq nhêng salĩq. 48Yê-hô-saphat táq tuoc tâng dỡq mưt machớng tháng cớp tuoc pỡ vil Tar-sit, ien án ngcỗi yễng tễ cruang Ô-phia; ma tuoc nâi pacháh pỡ vil Ê-si-ôn Ki-bơ, cớp tỡ têq pỡq noâng. 49Chơ Aha-sia con samiang Ahap, la puo cũai I-sarel pai neq: “Khân ngkíq, yỗn cũai anhia cớp cũai hếq pỡq parnơi tâng tuoc.” Ma puo Yê-hô-saphat tỡ bữn pruam. 50Chơ puo Yê-hô-saphat cuchĩt, cớp noau dững tứp án tâng ping puo pỡ Vil Davĩt. Moâm ki, Yê-hô-ram con samiang án ễn chỗn cỡt puo pláih án.
Aha-sia Puo I-sarel
51Tâng cumo muoi chít tapul Yê-hô-saphat cỡt puo cruang Yuda, Aha-sia con samiang puo Ahap chỗn cỡt puo cruang I-sarel, cớp cỡt puo tâng vil Sa-mari bar cumo. 52Án táq ranáq loâi lứq chóq Yiang Sursĩ, machớng cớp puo Ahap mpoaq án, Yê-sabel mpiq án, cớp puo Yê-rabũam con samiang Nê-bat, la cũai radững máh cũai I-sarel táq lôih. 53Án pỡq cucốh sang toam yiang Ba-al machớng mpoaq án khoiq táq, dŏq mandốq Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp I-sarel cutâu mứt lứq chóq án.