1

Lịch sử của Sa-lô-môn

(Từ đoạn 1 đến đoạn 9)

Sa-lô-môn dâng của lễ tại Ga-ba-ôn

1 Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, được vững bền trong nước mình; Giê-hô-va Đức Chúa Trời người ở cùng người, và làm cho người rất thạnh vượng.
2 Sa-lô-môn truyền bảo cả Y-sơ-ra-ên, các quan tướng ngàn người và trăm người, các quan xét và hết thảy các trưởng trong Y-sơ-ra-ên, là các trưởng tộc, phải đến; 3 đoạn, Sa-lô-môn và cả hội chúng đều đi lên nơi cao tại Ga-ba-ôn; vì ở đó có hội mạc của Đức Chúa Trời, mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã làm nơi đồng vắng ( 4 nhưng Đa-vít đã rước hòm Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át-Giê-a-rim lên đến nơi người đã dọn sẵn cho hòm; vì người đã dựng cho hòm ấy một cái trại tại Giê-ru-sa-lem). 5 Vả, ở trước đền tạm của Đức Giê-hô-va có bàn thờ đồng mà Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, đã làm; Sa-lô-môn và hội chúng đều đến nơi đó. 6 Sa-lô-môn bèn lên đến bàn thờ bằng đồng đặt ở trước mặt Đức Giê-hô-va, tại hội mạc, và dâng một ngàn của lễ thiêu trên bàn thờ ấy.
7 Chánh đêm ấy, Đức Chúa Trời hiện đến cùng Sa-lô-môn, mà phán rằng: Ngươi muốn ta ban cho điều gì, hãy xin đi. 8 Sa-lô-môn thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Chúa đã ban ơn rộng cho Đa-vít, cha tôi, và đã đặt tôi làm vua thế cho người. 9 Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời, bây giờ nguyện cho lời Chúa hứa cùng Đa-vít, cha tôi, được ứng nghiệm; vì Chúa đã lập tôi lên làm vua dân sự nầy đông như bụi đất. 10 Vậy, xin Chúa ban cho tôi sự khôn ngoan và tri thức, để tôi ra vào trước mặt dân sự nầy; vì ai dễ xét đoán được dân của Chúa rất đông dường kia? 11 Đức Chúa Trời phán với Sa-lô-môn rằng: Ta đã lập ngươi làm vua dân sự ta; vả, vì ngươi có lòng như vậy, không có cầu xin sự giàu có, của cải, tôn vinh, hay là mạng sống của những kẻ ghen ghét ngươi, và cũng chẳng có xin sự sống lâu, nhưng lại cầu xin sự khôn ngoan và tri thức cho mình, để xét đoán dân sự ta, 12 nên ta đã ban sự khôn ngoan và tri thức cho ngươi; ta lại sẽ ban cho ngươi sự giàu có, của cải, tôn vinh, đến đỗi các vua trước ngươi không hề có như vậy, và sau ngươi cũng sẽ chẳng có vua nào được như thế.
13 Đoạn, Sa-lô-môn từ nơi cao tại Ga-ba-ôn, ở trước hội mạc, trở về Giê-ru-sa-lem; và người cai trị Y-sơ-ra-ên.
14 Sa-lô-môn nhóm những xe và lính kỵ, được một ngàn bốn trăm cỗ xe, và mười hai ngàn lính kỵ; người để nó trong thành chứa xe, và gần nơi vua tại Giê-ru-sa-lem. 15 Vua làm cho bạc vàng trong Giê-ru-sa-lem ra thường như đá sỏi, và cây bá hương nhiều như cây sung nơi đồng bằng. 16 Còn ngựa của Sa-lô-môn đều từ Ê-díp-tô mà ra; các con buôn của vua đi lãnh mua nó từng bầy, mỗi bầy theo giá nhất định. 17 Người ta từ xứ Ê-díp-tô mua đem lên một cái xe giá sáu trăm siếc-lơ bạc, còn một con ngựa giá một trăm năm mươi siếc-lơ; các vua dân Hê-tít và vua Sy-ri cũng theo giá ấy nhờ những con buôn của vua mà mua về.

1

Puo Sa-lamôn Câu Sễq Ŏ́c Roan Rangoaiq

1Sa-lamôn con samiang puo Davĩt, án cỡt sốt tỗp I-sarel cớp curiaq cruang cutễq khâm lứq, cớp Yiang Sursĩ, Ncháu án, yỗn án bữn chớc toâr lứq.
2Puo Sa-lamôn ớn sốt ca taniap tahan tỗp muoi ngin náq cớp tỗp muoi culám náq, máh cũai rasữq, máh cũai sốt, cớp nheq tữh cũai proai, 3yỗn puai án pỡq chu ntốq sang toam tâng vil Ki-bê-ôn. Tỗp alới pỡq chu ki la cỗ Dống Sang Aroâiq ỡt pỡ ki. Dống Sang Aroâiq ki Môi-se, cũai táq ranáq Yiang Sursĩ, khoiq táq bo alới ỡt pỡ ntốq aiq. 4Ma Hĩp Parnai Parkhán, puo Davĩt khoiq dững achu tễ vil Ki-riat Yê-arim, chơ dŏq pỡ dống aroâiq án khoiq thrũan pỡ vil Yaru-salem. 5Prông sang sapoan ca Be-salen con samiang Uri, châu Hơr, khoiq táq dŏq noâng ỡt choâng moat Dống Sang Aroâiq pỡ vil Ki-bê-ôn. Puo Sa-lamôn cớp nheq tữh cũai proai pỡq sang toam Yiang Sursĩ tâng ntốq ki. 6Sa-lamôn sang toam Yiang Sursĩ na chiau sang máh crơng tâng prông sang sapoan tâng nchŏh Dống Sang Aroâiq; án kiac charán muoi ngin lám, cớp bốh sang yỗn cat lacốiq nheq.
7Tâng sadâu ki, Yiang Sursĩ toâq sapáh yỗn Sa-lamôn, cớp blớh án neq: “Ntrớu mới yoc ễ bữn tễ cứq?”
8Puo Sa-lamôn ta‑ỡi: “Anhia khoiq ayooq Davĩt mpoaq cứq sa‑ữi lứq, cớp sanua anhia khoiq chóh cứq yỗn cỡt puo pláih án. 9Ơ Yiang Sursĩ, Ncháu cứq, ơi! Sễq anhia yỗn máh ŏ́c anhia khoiq par‑ữq cớp mpoaq cứq lứq cỡt. Anhia khoiq chóh cứq yỗn cỡt puo dŏq cỡt sốt máh cũai proai clứng lứq samoât phốn cutễq. 10Ngkíq, sễq anhia chuai yỗn cứq bữn ŏ́c roan rangoaiq cớp dáng raloaih dŏq cứq têq radững máh cũai proai nâi. Khân tỡ bữn ngkíq, nŏ́q têq cứq cỡt sốt máh cũai proai anhia clứng lứq nâi?”
11Yiang Sursĩ ta‑ỡi Sa-lamôn neq: “Mới khoiq rưoh ŏ́c pĩeiq. Mới tỡ bữn rưoh sốc bữn, tỡ la máh crơng crớu, tỡ la ramứh ranoâng, tỡ la cachĩt máh cũai par‑ũal mới, tỡ la yỗn dỡi tamoong mới ỡt cóng tamoong dũn. Ma mới rưoh ễq cỡt roan rangoaiq cớp dáng raloaih dŏq têq táq sốt máh cũai proai cứq, la máh cũai ca cứq khoiq rưoh yỗn mới cỡt puo tỗp alới. 12Ngkíq, cứq lứq yỗn mới bữn ŏ́c roan rangoaiq cớp dáng raloaih lứq. Ma hỡn tễ nâi ễn, cứq ễ yỗn mới cỡt sốc cớp bữn mun sa‑ữi lứq, dếh ramứh ranoâng mới cỡt dŏ́h duor, clữi tễ máh cũai ca cỡt puo nhũang mới, tỡ la cũai ca cỡt puo ntun mới.”

Puo Sa-lamôn Cỡt Sốt Toâr Cớp Sốc Lứq

13Puo Sa-lamôn loŏh tễ ntốq sang toam pỡ vil Ki-bê-ôn, la ntốq bữn Dống Sang Aroâiq Yiang Sursĩ; chơ án píh chu loah pỡ vil Yaru-salem. Ỡt tâng vil Yaru-salem án cỡt sốt nheq máh cũai I-sarel. 14Án parỗm 1,400 lám sễ aséh rachíl, cớp 12,000 lám aséh. Án dŏq sễ aséh rachíl cớp máh aséh tâng vil Yaru-salem cớp tâng vil canŏ́h hỡ. 15Bo Sa-lamôn cỡt sốt, práq tiaq cớp yễng tâng vil Yaru-salem cỡt sa‑ữi samoât tamáu miat sâng. Cớp aluang sê-da la cỡt sa‑ữi samoât nỡm tarúng tễ cuar cóh cruang Yuda. 16Máh cũai ayững atĩ puo Sa-lamôn dững asuoi aséh tễ cruang Musur cớp tễ cruang Si-lasia. 17Muoi lám sễ aséh rachíl ca dững achu tễ cruang Ê-yip-tô alới chỡng tapoât culám ŏ́c práq; muoi lám aséh alới chỡng muoi culám sỡng chít ŏ́c práq. Máh cũai ayững atĩ puo dững chếq sễ aséh rachíl cớp aséh yỗn puo cũai Hêt cớp puo cũai Si-ri.