4

Người đàn bà Sa-ma-ri

1 Khi Chúa đã hay rằng người Pha-ri-si có nghe đồn Ngài gọi và làm phép báp-têm được nhiều môn đồ hơn Giăng, 2 (kỳ thiệt không phải chính Đức Chúa Jêsus làm phép báp-têm, nhưng là môn đồ Ngài), 3 thì Ngài lìa xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê. 4 Vả, Ngài phải đi ngang qua xứ Sa-ma-ri. 5 Vậy Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần đồng ruộng mà Gia-cốp cho Giô-sép là con mình. 6 Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhân đi đàng mỏi mệt, Đức Chúa Jêsus ngồi gần bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu.
7 Một người đàn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta uống. 8 Vì môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn. 9 Người đàn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! Ông là người Giu-đa, mà lại xin uống nước cùng tôi, là một người đàn bà Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.) 10 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết người nói: “Hãy cho ta uống” là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho ngươi nước sống. 11 Người đàn bà thưa: Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống ấy? 12 Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao? 13 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi; 14 nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời. 15 Người đàn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa.
16 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây. 17 Người đàn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm; 18 vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy. 19 Người đàn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri. 20 Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem. 21 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem. 22 Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. 23 Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24 Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy. 25 Người đàn bà thưa: Tôi biết rằng Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta. 26 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó.
27 Khi đó, môn đồ tới, đều sững sờ về Ngài nói với một người đàn bà; nhưng chẳng ai hỏi rằng: Thầy hỏi người ấy điều chi? Hay là: Sao thầy nói với người? 28 Người đàn bà bèn bỏ cái vò của mình lại và vào thành, nói với người tại đó rằng: 29 Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Đấng Christ sao? 30 Chúng bèn từ trong thành ra và đến cùng Đức Chúa Jêsus.
31 Song le, môn đồ nài nỉ một bên Ngài mà rằng: Thưa thầy, xin hãy ăn. 32 Ngài đáp rằng: Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết. 33 Vậy môn đồ nói với nhau rằng: Có ai đã đem chi cho thầy ăn chăng? 34 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài. 35 Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt. 36 Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời, hầu cho người gieo giống và con gặt được cùng nhau vui vẻ. 37 Vì đây người ta có thể nói rằng: Người nầy thì gieo, người kia thì gặt, là rất phải. 38 Ta đã sai các ngươi gặt nơi mình không làm; kẻ khác đã làm, còn các ngươi thì đã vào tiếp lấy công lao của họ.
39 Có nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì cớ lời đàn bà đã làm chứng về Ngài mà rằng: Ngài đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm. 40 Vậy, các người Sa-ma-ri đã đến cùng Ngài, xin Ngài vào trọ nơi mình; Ngài bèn ở lại đó hai ngày. 41 Khi đã nghe lời Ngài rồi, người tin Ngài càng đông hơn nữa. 42 Họ nói với người đàn bà rằng: Ấy không còn phải vì điều ngươi đã nói với chúng ta mà chúng ta tin đâu; vì chính chúng ta đã nghe Ngài, và biết rằng chính Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian.

Đức Chúa Jêsus trở về xứ Ga-li-lê. – Sự chữa lành con trai quan thị vệ

43 Khỏi hai ngày ấy, Đức Chúa Jêsus từ đó đi qua xứ Ga-li-lê 44 (vì chính Ngài đã phán rằng một người tiên tri chẳng bao giờ được tôn kính trong quê hương mình). 45 Khi đã đến xứ Ga-li-lê, Ngài được dân xứ ấy tiếp rước tử tế, bởi dân đó đã thấy mọi điều Ngài làm tại thành Giê-ru-sa-lem trong ngày lễ; vì họ cũng có đi dự lễ.
46 Vậy, Ngài lại đến thành Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, là nơi Ngài đã hóa nước thành rượu. Nguyên ở tại thành Ca-bê-na-um, có một quan thị vệ kia, con trai người mắc bệnh. 47 Quan đó nghe Đức Chúa Jêsus đã từ xứ Giu-đê đến xứ Ga-li-lê, bèn tìm đến và xin Ngài xuống đặng chữa cho con mình gần chết. 48 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Nếu các ngươi không thấy phép lạ và điềm lạ, thì các ngươi chẳng tin! 49 Quan thị vệ trả lời rằng: Lạy Chúa, xin Chúa xuống trước khi con tôi chưa chết! 50 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống. Người đó tin lời Đức Chúa Jêsus đã phán cho mình, bèn đi. 51 Người đang đi dọc đàng, các đầy tớ người đến đón mà rằng. Con trai chủ sống. 52 Người bèn hỏi họ con trai mình đã thấy khá nhằm giờ nào. Họ trả lời rằng: Bữa qua, hồi giờ thứ bảy, cơn rét lui khỏi. 53 Người cha nhận biết rằng ấy là chính giờ đó Đức Chúa Jêsus đã phán cùng mình rằng: Con của ngươi sống; thì người với cả nhà đều tin. 54 Ấy là phép lạ thứ hai mà Đức Chúa Jêsus đã làm, khi Ngài từ xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê.

4

Yêsu Pơhiăp Hăng Pô Đah Kơmơi Samaria

1Ƀing Pharisai hơmư̆ hing kơ tơlơi Yêsu hơmâo lu ƀing ding kơna laih anŭn ngă brơi baptem lu hloh kơ Yôhan, 2djơ̆ biă mă ñu, ƀu djơ̆ Yêsu pô ôh ngă brơi baptem, samơ̆ ƀing ding kơna Ñu yơh ngă. 3Tơdang Yêsu thâo kơ tơlơi anŭn, Ñu đuaĭ hĭ mơ̆ng kwar Yudea laih anŭn wơ̆t glaĭ pơ kwar Galilê dơ̆ng.
4Hlak anŭn, Ñu khưp ngă laih kiăng kơ khŏm găn nao amăng kwar Samaria. 5Tui anŭn, Ñu nao truh pơ sa boh plei amăng kwar Samaria anăn Sukhar, jing jĕ pơ hơma Yakôb hơmâo jao brơi laih kơ ană ñu Yôsêp đưm hlâo adih. 6Pơ anŭn hơmâo sa boh ia dơmun hlâo adih lŏm kơ Yakôb. Yêsu gleh rơmơ̆n mơ̆ng tơlơi rơbat laih anŭn Ñu dŏ be̱r jĕ ƀơi ia dơmun anŭn. Hlak anŭn, kơplăh wăh ƀơi yang hrơi dơ̆ng yơh. 7Tơdang hơmâo sa čô đah kơmơi Samaria rai sŏ ia, Yêsu rơkâo kơ ñu tui anai, “Pha brơi kơ Kâo mơñum ia đa?” 8Hlak anŭn, ƀing ding kơna Ñu mŭt nao pơ plei laih kiăng kơ blơi gơnam ƀơ̆ng.
9Pô đah kơmơi Samaria anŭn laĭ kơ Ñu tui anai, “Ih jing sa čô Yehudah laih anŭn kâo jing sa čô đah kơmơi Samaria. Hiư̆m pă ih dưi rơkâo mơ̆ng kâo kiăng kơ mơñum ia lĕ?” Ñu laĭ tui anŭn yuakơ amăng rơnŭk anŭn, ƀing Yehudah ƀu kiăng tĕk wĕk hơget ôh hăng ƀing Samaria.
10Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Tơdah ih thâo krăn tơlơi Ơi Adai kiăng pha brơi kơ ih laih anŭn thâo krăn hlơi pô hlak rơkâo kơ ih ia mơñum, sĭt ih či rơkâo kơ Kâo laih anŭn Kâo či pha brơi kơ ih ia jing ia ngă brơi kơ ih hơdip yơh.”
11Pô đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua ăh, ih ƀu hơmâo gơnam hơget ôh kiăng kơ sŏ ia laih anŭn ia dơmun anai ăt dơlăm dơ̆ng mơ̆n, tui anŭn mơ̆ng pă ih dưi mă ia hơdip anŭn jing ia ngă brơi kơ kâo hơdip lĕ? 12Ih jing yom prŏng hloh kơ ơi adon gơmơi Yakôb hă, jing pô brơi laih kơ ƀing gơmơi ia dơmun anai laih anŭn ñu pô ăt mơñum mơ̆ng ia anai mơ̆n, wơ̆t hăng ƀing ană đah rơkơi ñu, tơpul hlô mơnơ̆ng ñu ăt mơñum ia anai mơ̆n?”
13Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Hlơi pô mơñum ia mơ̆ng ia dơmun anai, ñu anŭn ăt či dŏ mơhao dơ̆ng mơ̆n, 14samơ̆ hlơi pô mơñum ia Kâo pha brơi kơ ñu, ñu anŭn ƀu či mơhao dơ̆ng tah. Sĭt yơh, ia Kâo brơi kơ ñu anŭn či jing hĭ amăng ñu kar hăng phŭn ia bluh jing tơlơi či ngă kơ ñu hơdip hlŏng lar yơh.”
15Đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua, pha brơi bĕ ia anŭn kơ kâo, kiăng kơ kâo ƀu či mơhao laih anŭn ƀu rai sŏ ia pơ anai dơ̆ng tah.”
16Yêsu pơđar kơ gơ̆ tui anai, “Nao iâu bĕ rơkơi ih laih anŭn wơ̆t glaĭ pơ anai.”
17Đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Kâo ƀu hơmâo rơkơi ôh.”
 Yêsu laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Ih laĭ djơ̆ yơh tơdang ih laĭ kơ tơlơi ih ƀu hơmâo rơkơi ôh.
18Djơ̆ biă mă ñu, ih hơmâo laih rơma čô rơkơi, bơ kơ rơkơi ih hlak dŏ ră anai ƀu djơ̆ rơkơi ih ôh. Tơlơi ih phrâo pơhiăp anŭn jing djơ̆ biă mă yơh.”
19Pô đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua ăh, kâo thâo ih jing pô pơala. 20Ƀing ơi adon gơmơi kơkuh pơpŭ kơ Ơi Adai ƀơi čư̆ anai, samơ̆ ƀing gih jing ƀing Yehudah yap kơ anih ƀing gơmơi khŏm kơkuh pơpŭ jing anih amăng plei phŭn Yerusalaim.”
21Yêsu pơhiăp tui anai, “Ơ đah kơmơi ăh, đaŏ kơ Kâo bĕ tơdang Kâo laĭ kơ tơlơi hrơi mông anŭn či truh tơdang ƀing gih či kơkuh pơpŭ kơ Yang Ama ƀu djơ̆ kơnơ̆ng ƀơi čư̆ anai đôč ôh ăt kŏn djơ̆ amăng plei Yerusalaim lơi. 22Ƀing gih, jing ƀing Samaria, kơkuh pơpŭ kơ tơlơi ƀing gih ƀu thâo ôh. Ƀing gơmơi, jing ƀing Yehudah, kơkuh pơpŭ kơ tơlơi ƀing gơmơi thâo, yuakơ mơ̆ng ƀing gơmơi, jing ƀing Yehudah yơh, Ơi Adai hơmâo pơkiaŏ rai laih Pô pơklaih mơnuih mơnam. 23Samơ̆ hrơi mông anŭn hlak truh laih anŭn hơmâo truh laih yơh tơdang ƀing mơnuih kơkuh pơpŭ sĭt kơ Ơi Adai či kơkuh pơpŭ kơ Ñu tui hăng Yang Bơngăt Ñu kơčrâo brơi laih anŭn tui hăng mơta tơlơi jing sĭt yơh, yuakơ Yang Ama hơduah kiăng kơ ƀing mơnuih kơkuh pơpŭ kơ Ñu kar hăng anŭn yơh. 24Hơnŭn yơh, Ơi Adai jing yang bơngăt, hlơi pô kơkuh pơpŭ kơ Ñu, ñu anŭn khŏm kơkuh pơpŭ kơ Ñu tui hăng Yang Bơngăt Ñu kơčrâo brơi laih anŭn tui hăng tơlơi sĭt yơh.”
25Pô đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Kâo thâo kơ tơlơi Pô Messiah, jing Pô Krist anŭn, hlak rai. Tơdang Ñu rai, Ñu či pơblang abih bang tơlơi bruă ƀing gơmơi kiăng kơ thâo yơh.”
26Giŏng anŭn, Yêsu laĭ dơ̆ng tui anai, “Kâo, jing Pô hlak pơhiăp anai yơh, jing Pô Messiah.”

Ƀing Ding Kơna Yêsu Glaĭ Pơ Ñu

27Ƀơi mông anŭn ƀing ding kơna Ñu truh laih anŭn ƀing gơñu le̱ng kơ kơtuă soh sel tơdang ƀuh Yêsu hlak pơhiăp hăng sa čô đah kơmơi. Samơ̆ ƀu hơmâo hlơi pô ôh tơña kơ pô đah kơmơi anŭn tui anai, “Hơget tơlơi Ih kiăng lĕ?” Ƀôdah tơña kơ Yêsu tui anai, “Yua hơget Ih pơhiăp hăng ñu lĕ?”
28Giŏng anŭn, pô đah kơmơi anŭn lui hĭ čeh ia ñu laih anŭn wơ̆t glaĭ pơ plei hăng ruai kơ ƀing ană plei anŭn tui anai, 29“Rai lăng bĕ, hơmâo sa čô mơnuih dưi pơruai glaĭ kơ kâo abih bang tơlơi kâo hơmâo ngă laih hlâo adih. Ñu anŭn ƀu djơ̆ Krist ôh hă?” 30Tui anŭn, abih bang mơnuih amăng plei tơbiă laih anŭn nao pơ Yêsu.
31Tơdang anŭn, ƀing ding kơna Ñu rơkâo kơ Ñu tui anai, “Ơ Nai ăh, ƀơ̆ng huă bĕ.”
32Samơ̆ Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo hơmâo gơnam ƀơ̆ng kiăng kơ ƀơ̆ng samơ̆ ƀing gih ƀu thâo djơ̆ ôh.”
33Tơdơi kơ Ñu pơhiăp laih tui anŭn, ƀing ding kơna Ñu pơlaĭ hăng tơdruă gơñu tui anai, “Hơmâo mơnuih ba rai gơnam ƀơ̆ng kơ Ñu laih hă?”
34Yêsu laĭ dơ̆ng tui anai, “Gơnam ƀơ̆ng Kâo jing kar hăng tơlơi ngă tui tơlơi kiăng Pô pơkiaŏ rai laih Kâo kiăng kơ Kâo ngă laih anŭn pơgiŏng hĭ bruă anŭn yơh. 35Ƀing gih hơmâo tơlơi pơhiăp pơhreng tui anai, ‘Dŏ pă̱ blan dơ̆ng truh kơ bơyan hơpuă.’ Samơ̆ Kâo laĭ kơ ƀing gih, lăng pơñen bĕ ƀơi ƀing mơnuih jing ƀing kar hăng pơdai amăng đang hơma! Ƀing gơñu jing kar hăng pơdai tơsă tơdang bơyan hơpuă hơmâo truh laih yơh. 36Ră anai mơnuih kar hăng pô hơpuă hlak tŭ mă tơlơi bơni laih hăng pơƀut glaĭ ƀing mơnuih kar hăng pơƀut glaĭ gơnam tăm tui anŭn ƀing gơñu dưi hơdip hlŏng lar, tui anŭn mơnuih jing pô sai hăng mơnuih pơkŏn jing pô hơpuă hơ̆k mơak hrŏm hơbĭt yơh. 37Tui anŭn, hơmâo tơlơi pơhiăp pơhreng tui anai, ‘Pô anai sai, pô pơkŏn hơpuă’ jing djơ̆ biă mă yơh. 38Kâo pơkiaŏ laih ƀing gih kiăng kơ mă bruă kar hăng hơpuă pơ anih ƀing gih kar hăng ƀu sai ôh. Ƀing pơkŏn hơmâo pơgiŏng laih bruă tơnap laih anŭn ƀing gih kơnơ̆ng tŭ mơyŭn, kar hăng hơpuă, mơ̆ng bruă gơñu đôč yơh.”

Lu Ƀing Samaria Đaŏ Kơnang Kơ Yêsu

39Hơmâo lu ƀing Samaria mơ̆ng plei anŭn đaŏ kơnang kơ Yêsu yuakơ tơlơi pô đah kơmơi anŭn pơruai laih kơ ƀing gơñu tui anai, “Ñu dưi pơruai glaĭ laih kơ kâo abih bang tơlơi kâo hơmâo ngă hlâo adih.” 40Tui anŭn, tơdang ƀing Samaria nao pơ Yêsu, ƀing gơñu rơkâo kơ Ñu dŏ glaĭ hăng ƀing gơ̆, laih anŭn Yêsu dŏ glaĭ pơ anŭn dua hrơi yơh. 41Yua mơ̆ng hơdôm tơlơi Yêsu hơmâo pơruai laih kơ ƀing gơñu, hơmâo lu mơnuih dơ̆ng đaŏ kơnang kơ Ñu.
42Ƀing gơñu laĭ kơ pô đah kơmơi anŭn tui anai, “Ƀing gơmơi ƀu đaŏ dơ̆ng tah kơnơ̆ng tui hăng tơlơi ih pơruai laih, samơ̆ ră anai gơmơi pô yơh hơmâo hơmư̆ laih Ñu, laih anŭn thâo sĭt Ñu yơh jing Pô dưi pơklaih hĭ abih bang mơnuih mơnam yơh.”

Yêsu Pơsuaih Ană Rơkơi Pô Khua Tơhan

43Tơdơi kơ dua hrơi anŭn, Yêsu đuaĭ nao pơ kwar Galilê yơh. 44Hlâo kơ anŭn Yêsu pô hơmâo laĭ laih kơ tơlơi sa čô pô pơala arăng ƀu pơpŭ pơyom ôh amăng plei ñu pô. 45Tơdang Ñu truh pơ kwar Galilê, ƀing mơnuih kwar anŭn čơkă mơak hăng Ñu yơh. Ƀing gơñu hơmâo ƀuh laih abih bang tơlơi Ñu hơmâo ngă laih ƀơi tơlơi phet Tơlơi Găn amăng plei Yerusalaim, yuakơ ƀing gơñu ăt nao pơ tơlơi phet anŭn mơ̆n.
46Sa wơ̆t dơ̆ng, Yêsu nao čuă ngui plei Kana amăng kwar Galilê, jing plei Ñu hơmâo pơplih hĭ laih ia ƀlăng jing hĭ tơpai boh kơƀâo. Pơ anŭn hơmâo sa čô khua tơhan, ană đah rơkơi ñu hlak dŏ ruă kơtang pơ plei Kapharnaoum. 47Tơdang pô khua anŭn hơmư̆ kơ tơlơi Yêsu hơmâo rai laih amăng kwar Galilê mơ̆ng kwar Yudea, ñu nao bưp Yêsu laih anŭn rơkâo kơ Ñu nao pơsuaih brơi ană ñu jĕ či djai laih.
48Tui anŭn, Yêsu laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Kơnơ̆ng tơdah ƀing gih ƀuh Kâo ngă lu gru tơlơi mơsêh mơyang dơ̆ng đôč kiăng pơrơđah hlơi Kâo jing, anŭn kăh ƀing gih či đaŏ kơnang kơ Kâo.”
49Pô khua anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua ăh, rơkâo kơ Ih rai bĕ hlâo kơ ană kâo djai.”
50Yêsu pơhiăp tui anai, “Nao bĕ, ană đah rơkơi ih či hơdip yơh.”
 Pô khua anŭn đaŏ kơ boh pơhiăp Yêsu laih anŭn glaĭ yơh.
51Tơdang ñu ăt dŏ rơbat ƀơi jơlan, hơmâo ƀing ding kơna ñu đuaĭ nao čơkă ñu hăng ruai kơ tơlơi ană ñu ăt dŏ hơdip. 52Tơdang pô khua anŭn tơña kơ ƀing gơñu hlak ƀơi mông pă ană ñu dưi suaih, ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Ñu suaih hĭ mơ̆ng ruă tơ̆m brơi ƀơi sa mông klăm.”
53Giŏng anŭn, pô ama anŭn thâo krăn mơtam kơ tơlơi djơ̆ ƀơi mông anŭn yơh Yêsu hơmâo pơhiăp laih hăng ñu tui anai, “Ană đah rơkơi ih či hơdip yơh.” Tui anŭn, ñu hăng abih bang sang ñu đaŏ kơnang kơ Yêsu yơh.
54Anŭn jing tơlơi mơsêh mơyang tal dua Yêsu hơmâo ngă laih tơdang Ñu tơbiă mơ̆ng kwar Yudea hăng glaĭ pơ kwar Galilê.