8

Người đàn bà tà dâm

1 Đức Chúa Jêsus lên trên núi Ô-li-ve.
2 Nhưng đến tảng sáng, Ngài trở lại đền thờ; cả dân sự đều đến cùng Ngài, Ngài bèn ngồi dạy dỗ họ.
3 Bấy giờ, các thầy thông giáo và các người Pha-ri-si dẫn lại cho Ngài một người đàn bà đã bị bắt đang khi phạm tội tà dâm; họ để người giữa đám đông, 4 mà nói cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Thưa thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang về tội tà dâm. 5 Vả, trong luật pháp Môi-se có truyền cho chúng ta rằng nên ném đá những hạng người như vậy; --- còn thầy, thì nghĩ sao? 6 Họ nói vậy để thử Ngài, hầu cho có thể kiện Ngài. Nhưng Đức Chúa Jêsus cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất. 7 Vì họ cứ hỏi nữa, thì Ngài ngước lên và phán rằng: Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhứt ném đá vào người. 8 Rồi Ngài lại cúi xuống cứ viết trên mặt đất. 9 Khi chúng nghe lời đó, thì kế nhau mà đi ra, những người có tuổi đi trước; Đức Chúa Jêsus ở lại một mình với người đàn bà, người vẫn đương đứng chính giữa đó. 10 Đức Chúa Jêsus bấy giờ lại ngước lên, không thấy ai hết, chỉ có người đàn bà, bèn phán rằng: Hỡi mụ kia, những kẻ cáo ngươi ở đâu? Không ai định tội ngươi sao? 11 Người thưa rằng: Lạy Chúa, không ai hết. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa.)

Đức Chúa Jêsus lại làm chứng về mình trước mặt dân Giu-đa

12 Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán cùng chúng rằng: Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống. 13 Người Pha-ri-si bèn nói rằng: Thầy tự làm chứng về mình, thì lời chứng thầy không đáng tin. 14 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Dẫu ta tự làm chứng về mình, nhưng lời chứng ta là đáng tin, vì ta biết mình đã từ đâu mà đến và đi đâu; song các ngươi không biết ta từ đâu mà đến, cũng chẳng hay ta đi đâu. 15 Các ngươi xét đoán theo xác thịt; ta thì không xét đoán người nào hết. 16 Nếu ta xét đoán ai, sự xét đoán của ta đúng với lẽ thật; vì ta không ở một mình, nhưng Cha là Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta. 17 Vả, có chép trong luật pháp của các ngươi rằng lời chứng hai người là đáng tin: 18 Ta tự làm chứng cho ta, và Cha là Đấng đã sai ta đến cũng làm chứng cho ta. 19 Chúng thưa cùng Ngài rằng: Cha của thầy ở đâu? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi chẳng biết ta, và cũng chẳng biết Cha ta. Nếu các ngươi biết ta, thì cũng biết Cha ta nữa.
20 Đức Chúa Jêsus phán mọi lời đó tại nơi Kho, đương khi dạy dỗ trong đền thờ; và không ai tra tay trên Ngài, vì giờ Ngài chưa đến.
21 Ngài lại phán cùng chúng rằng: Ta đi, các ngươi sẽ tìm ta; và các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình. Các ngươi không thể đến được nơi ta đi. 22 Người Giu-đa bèn nói rằng: Người đã nói: Các ngươi không thể đến được nơi ta đi, vậy người sẽ tự tử sao? 23 Ngài phán rằng: Các ngươi bởi dưới mà có; còn ta bởi trên mà có. Các ngươi thuộc về thế gian nầy; còn ta không thuộc về thế gian nầy. 24 Nên ta đã bảo rằng các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình; vì nếu các ngươi chẳng tin ta là Đấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi. 25 Chúng bèn hỏi Ngài rằng: Vậy thầy là ai? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Như lời ta đã nói với các ngươi từ ban đầu. 26 Ta có nhiều sự nói và đoán xét về các ngươi; nhưng Đấng đã sai ta đến là thật, và điều chi ta nghe bởi Ngài, ta truyền lại cho thế gian. 27 Chúng không hiểu rằng Ngài phán về Cha. 28 Vậy Đức Chúa Jêsus phán rằng: Khi các ngươi treo Con người lên, bấy giờ sẽ biết ta là ai, và biết ta không tự mình làm điều gì, nhưng nói điều Cha ta đã dạy ta. 29 Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta, chẳng để ta ở một mình, vì ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài.
30 Bởi Đức Chúa Jêsus nói như vậy, nên có nhiều kẻ tin Ngài. 31 Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giu-đa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta; 32 các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi. 33 Người Giu-đa thưa rằng: Chúng tôi là dòng dõi Áp-ra-ham, chưa hề làm tôi mọi ai, vậy sao thầy nói rằng: Các ngươi sẽ trở nên tự do? 34 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai phạm tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi. 35 Vả, tôi mọi không ở luôn trong nhà, mà con thì ở đó luôn. 36 Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do. 37 Ta biết rằng các ngươi là dòng dõi Áp-ra-ham, nhưng các ngươi tìm thế để giết ta, vì đạo ta không được chỗ nào ở trong lòng các ngươi. 38 Ta nói điều ta đã thấy nơi Cha ta; còn các ngươi cứ làm điều đã học nơi cha mình.
39 Chúng trả lời rằng: Cha chúng tôi tức là Áp-ra-ham, Đức Chúa Jêsus phán rằng: Nếu các ngươi là con Áp-ra-ham, thì chắc sẽ làm công việc của Áp-ra-ham. 40 Nhưng hiện nay, các ngươi tìm mưu giết ta, là người lấy lẽ thật đã nghe nơi Đức Chúa Trời mà nói với các ngươi; Áp-ra-ham chưa hề làm điều đó! 41 Các ngươi làm công việc của cha mình. Chúng nói rằng: Chúng tôi chẳng phải là con ngoại tình; chúng tôi chỉ có một Cha, là Đức Chúa Trời. 42 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ví bằng Đức Chúa Trời là Cha các ngươi thì các ngươi sẽ yêu ta, vì ta bởi Đức Chúa Trời mà ra và từ Ngài mà đến; bởi chưng ta chẳng phải đã đến tự mình đâu, nhưng ấy chính Ngài đã sai ta đến. 43 Tại sao các ngươi không hiểu lời ta? Ấy là bởi các ngươi chẳng có thể nghe được đạo của ta. 44 Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình, vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối. 45 Nhưng vì ta nói lẽ thật, nên các ngươi không tin ta.
46 Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng?… Nếu ta nói lẽ thật, sao các ngươi không tin ta? 47 Ai ra bởi Đức Chúa Trời, thì nghe lời Đức Chúa Trời; cho nên các ngươi chẳng nghe, tại các ngươi không thuộc về Đức Chúa Trời.
48 Người Giu-đa thưa rằng: Chúng tôi nói thầy là người Sa-ma-ri, và bị quỉ ám, há không phải sao? 49 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta chẳng phải bị quỉ ám, nhưng ta tôn kính Cha ta, còn các ngươi làm nhục ta. 50 Ta chẳng tìm sự vinh hiển ta, có một Đấng tìm và đoán xét. 51 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu kẻ nào giữ lời ta, sẽ chẳng thấy sự chết bao giờ. 52 Người Giu-đa nói rằng: Bây giờ chúng tôi thấy rõ thầy bị quỉ ám; Áp-ra-ham đã chết, các đấng tiên tri cũng vậy, mà thầy nói: Nếu kẻ nào giữ lời ta sẽ chẳng hề chết! 53 Thầy lại trọng hơn cha chúng tôi, Áp-ra-ham, là người đã chết sao? Các đấng tiên tri cũng đã chết; thầy mạo xưng mình là ai? 54 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ta tự tôn vinh, thì sự vinh hiển ta chẳng ra gì; ấy là Cha ta làm vinh hiển ta, là Đấng các ngươi xưng là Đức Chúa Trời của mình. 55 Dầu vậy, các ngươi chưa biết Ngài đâu; còn ta thì biết. Và nếu ta nói rằng ta không biết Ngài, ta sẽ cũng nói dối như các ngươi vậy; song ta biết Ngài, và ta giữ lời Ngài. 56 Cha các ngươi là Áp-ra-ham đã nức lòng nhìn thấy ngày của ta; người đã thấy rồi, và mừng rỡ. 57 Người Giu-đa nói rằng: Thầy chưa đầy năm mươi tuổi, mà đã thấy Áp-ra-ham! 58 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, trước khi chưa có Áp-ra-ham, đã có ta. 59 Bấy giờ chúng lấy đá đặng quăng vào Ngài; nhưng Đức Chúa Jêsus đi lén trong chúng, ra khỏi đền thờ.

8

Ƀing Arăng Ƀuh Sa Čô Đah Kơmơi Hlak Klĕ Pyu

1Tơdang anŭn, Yêsu đĭ nao pơ čư̆ Ôliwơ. 2Ƀơi mơguah ưm, Yêsu wơ̆t glaĭ pơ sang yang dơ̆ng, jing anih abih bang mơnuih pơƀut glaĭ jum dar Ñu. Giŏng anŭn, Yêsu dŏ be̱r čơdơ̆ng pơtô kơ ƀing gơñu yơh. 3Tơdang anŭn, ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt hăng ƀing Pharisai ba rai pơ Yêsu sa čô đah kơmơi arăng mă tơdang dŏ klĕ pyu. Ƀing gơñu brơi kơ gơ̆ dŏ ƀơi anăp ƀing mơnuih lu anŭn, 4laih anŭn laĭ kơ Yêsu tui anai, “Ơ Nai ăh, đah kơmơi anai arăng hơmâo mă ñu tơdang ñu dŏ klĕ pyu. 5Tui hăng Tơlơi Juăt Môseh pơđar kơ ƀing ta, ƀing ta khŏm glŏm boh pơtâo pơdjai hĭ đah kơmơi ngă soh kar hăng anŭn. Bơ kơ Ih, hiư̆m pă Ih laĭ lĕ?” 6Ƀing gơñu yua tơlơi tơña anŭn kiăng pơlê̆ hĭ Yêsu, anŭn kiăng hơmâo tơhơnal tơlơi phŏng kơđi kơ Gơ̆ yơh.
 Samơ̆ Yêsu tơkui hăng čơdơ̆ng čih ƀơi lŏn hăng čơđe̱ng tơngan Ñu.
7Tơdang ƀing gơñu ăt dŏ tơña kơ Ñu nanao, Yêsu angak lăng đĭ hăng laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Tơdah hlơi pô amăng ƀing gih jing pô ƀu hơmâo ngă soh laih ôh, brơi bĕ ñu anŭn jing pô blung hlâo glŏm boh pơtâo ƀơi đah kơmơi anai.” 8Giŏng anŭn, Yêsu tơkui čih ƀơi lŏn dơ̆ng.
9Tơdang ƀing gơñu hơmư̆ kơ tơlơi anŭn, rĭm čô ƀing gơñu ƀrư̆ ƀrư̆ đuaĭ hĭ. Ƀing tha hloh đuaĭ hĭ hlâo, tơl kơnơ̆ng hơjăn Yêsu đôč dŏ glaĭ pơ anih anŭn wơ̆t hăng pô đah kơmơi hlak dŏ dơ̆ng pơ anŭn mơ̆n. 10Yêsu lăng đĭ laih anŭn tơña kơ gơ̆ tui anai, “Ơ đah kơmơi ăh, pơpă ƀing phŏng kơđi kơ ih lĕ? Ƀu hơmâo hlơi pô klă̱ kơđi kơ ih ôh hă?”
11Pô đah kơmơi anŭn laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, ƀu hơmâo hlơi pô ôh.”
 Yêsu laĭ dơ̆ng tui anai, “Kâo kŏn klă̱ kơđi kơ ih lơi. Glaĭ bĕ laih anŭn lui hĭ bĕ tơlơi hơdip soh sat ih.”

Yêsu Jing Kar Hăng Tơlơi Bơngač Kơ Lŏn Tơnah

12Tơdang Yêsu pơhiăp dơ̆ng hăng ƀing mơnuih lu, Ñu laĭ tui anai, “Kâo jing kar hăng tơlơi bơngač kơ abih bang mơnuih mơnam amăng lŏn tơnah anai. Hlơi pô đuaĭ tui Kâo, ñu anŭn ƀu či hrup hăng mơnuih rơbat amăng tơlơi kơnăm mơmŏt ôh, samơ̆ Kâo či pơčrang brơi tơlơi hơdip ñu laih anŭn ngă kơ ñu hơdip yơh.”
13Tui anŭn, ƀing Pharisai pơgăl hăng Yêsu tui anai, “Ih pơ anai pơhiăp ngă gơ̆ng jơlan kơ Ih pô, sĭt boh hiăp Ih ƀu yom pơphan ôh.”
14Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Wơ̆t tơdah Kâo ngă gơ̆ng jơlan kơ Kâo pô, boh hiăp Kâo ăt yom pơphan mơ̆n, yuakơ Kâo thâo krăn mơ̆ng pă Kâo rai laih anŭn pơ anih pă Kâo či nao. Samơ̆ ƀing gih ƀu thâo ôh mơ̆ng pă Kâo rai ƀôdah pơ anih pă Kâo či nao. 15Ƀing gih phat kơđi tui hăng hơnơ̆ng pơkă mơnuih mơnam đôč, samơ̆ Kâo ƀu phat kơđi kơ hlơi pô ôh ră anai. 16Samơ̆ tơdah Kâo phat kơđi, tơlơi khưp ngă Kâo jing găl djơ̆, yuakơ Kâo ƀu či ngă hơjăn ôh. Kâo či phat kơđi hăng Ama Kâo, jing Pô pơkiaŏ rai Kâo yơh. 17Amăng Tơlơi Juăt gih pô arăng čih laih kơ tơlơi ngă gơ̆ng jơlan mơ̆ng dua čô jing yom pơphan. 18Kâo yơh jing Pô ngă gơ̆ng jơlan kơ Kâo pô; Pô pơkŏn dơ̆ng ăt ngă gơ̆ng jơlan kơ Kâo mơ̆n, anŭn jing Ama Kâo yơh, jing Pô pơkiaŏ rai Kâo.”
19Ƀing gơñu tơña kơ Ñu tui anai, “Pơpă Ama Ih lĕ?”
 Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Ƀing gih ƀu thâo krăn ôh kơ Kâo ƀôdah kơ Ama Kâo. Tơdah ƀing gih thâo krăn Kâo, ƀing gih ăt thâo krăn mơ̆n Ama Kâo.”
20Yêsu pơhiăp hơdôm boh hiăp anŭn tơdang Ñu pơtô amăng anih wăl tơdron sang yang, jing anih jĕ anih ƀing arăng pơyơr gơnam. Ƀu hơmâo hlơi pô ôh mă Ñu, yuakơ mông Ñu djai aka ƀu truh ôh.
21Sa wơ̆t dơ̆ng Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo či đuaĭ hĭ laih anŭn ƀing gih či hơduah sem Kâo, ƀing gih či djai hĭ rơngiao kơ Ơi Adai pap brơi tơlơi soh gih pô yơh. Anih Kâo či nao, ƀing gih ƀu dưi nao ôh.”
22Tơlơi Yêsu pơhiăp anŭn ngă brơi kơ ƀing khua djă̱ akŏ ƀing Yehudah pơtơña tui anai, “Ñu či pơdjai hĭ Ñu pô hă, yuakơ Ñu laĭ, ‘Pơ anih Kâo nao, ƀing gih ƀu dưi nao ôh’?”
23Samơ̆ Yêsu laĭ dơ̆ng tui anai, “Ƀing gih rai mơ̆ng gah yŭ, samơ̆ Kâo rai mơ̆ng gah ngŏ. Ƀing gih jing ƀing lŏm kơ lŏn tơnah anai, samơ̆ kâo ƀu lŏm kơ lŏn tơnah anai ôh. 24Kâo laĭ kơ ƀing gih kơ tơlơi ƀing gih či djai hĭ amăng khul tơlơi soh gih. Tơdah ƀing gih ƀu đaŏ ôh kơ tơlơi Kâo jing Pô Kâo laĭ Kâo jing, sĭt ƀing gih či djai hĭ rơngiao kơ Ơi Adai pap brơi khul tơlơi soh gih yơh.”
25Tui anŭn, ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Hlơi Ih jing lĕ?”
 Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi Kâo čơdơ̆ng pơtô pơblang laih, Kâo hơmâo pơruai laih nanao kơ ƀing gih truh pơ tă anai kơ tơlơi hlơi Kâo jing.
26Kâo hơmâo lu tơlơi pơhiăp kiăng phat kơđi kơ ƀing gih. Samơ̆ Pô pơkiaŏ rai Kâo jing Pô năng đaŏ kơnang, laih anŭn hơget tơlơi Kâo hơmâo hơmư̆ laih mơ̆ng Ñu, Kâo pơhaih kơ mơnuih mơnam yơh.”
27Ƀing gơñu ƀu thâo hluh ôh kơ tơlơi Yêsu ruai kơ ƀing gơñu kơ tơlơi Ama Ñu. 28Tui anŭn, Yêsu laĭ tui anai, “Kâo jing Pô trŭn rai laih mơ̆ng adai, samơ̆ tơdang ƀing gih yŏng đĭ Kâo ƀơi kơyâo bơrơkal, jing Ană Mơnuih, mông anŭn ƀing gih či thâo krăn yơh kơ tơlơi Kâo jing Pô Kâo laĭ Kâo jing, laih anŭn Kâo ƀu pha brơi tơlơi dưi kơ Kâo pô kiăng kơ ngă hơget tơlơi ôh, samơ̆ Kâo pơhiăp hơdôm mơta tơlơi Ama Kâo hơmâo pơtô laih kơ Kâo yơh. 29Pô hơmâo pơkiaŏ rai Kâo ăt dŏ hrŏm hăng Kâo. Ñu ƀu lui hĭ Kâo dŏ hơjăn ôh, yuakơ Kâo nanao ngă hơdôm tơlơi bruă pơmơak kơ Ñu.” 30Tơdang Ñu hlak pơhiăp hơdôm tơlơi anŭn, hơmâo lu mơnuih đaŏ kơnang kơ Yêsu yơh.

Ană Tơčô Abraham Sĭt

31Yêsu laĭ kơ ƀing Yehudah, jing ƀing hơmâo đaŏ kơnang laih kơ Ñu, tui anai, “Tơdah ƀing gih gưt tui tơlơi Kâo pơtô pơblang, sĭt ƀing gih jing ding kơna Kâo. 32Tui anŭn, ƀing gih či thâo krăn hơget tơlơi jing sĭt kơ tơlơi Ơi Adai laih anŭn Ñu či pơrơngai hĭ ƀing gih mơ̆ng tơlơi jing kar hăng ƀing mơnă yơh.”
33Ƀing gơñu laĭ kơ Ñu tui anai, “Ƀing gơmơi jing ƀing ană tơčô Abraham laih anŭn aka ƀu jing djơ̆ hlŭn kơ arăng ôh. Tui anŭn, hiư̆m pă Ih laĭ kơ tơlơi ƀing gơmơi arăng či pơrơngai hĭ lĕ?”
34Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, hlơi pô ngă soh ñu anŭn jing kar hăng sa čô hlŭn tui gưt kơ pô khua soh sat yơh. 35Hlŭn ƀu hơmâo anih dŏ amăng sang anŏ nanao ôh, samơ̆ ană yơh jing pô lŏm kơ sang anŏ nanao. 36Tui anŭn, tơdah Kâo, jing Yang Ană, pơrơngai hĭ ƀing gih, sĭt ƀing gih či rơngai yơh. 37Kâo thâo ƀing gih jing ană tơčô Abraham, samơ̆ ƀing gih prap pre kiăng pơdjai hĭ Kâo, yuakơ ƀing gih ƀu đaŏ kơnang ôh kơ tơlơi Kâo hơmâo pơtô laih kơ ƀing gih. 38Kâo ruai hăng ƀing gih hơdôm tơlơi Kâo hơmâo ƀuh laih ƀơi anăp Ama Kâo laih anŭn ƀing gih ngă tui hăng tơlơi ƀing gih hơmâo hơmư̆ laih mơ̆ng ama gih.”
39Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Abraham yơh jing ama gơmơi.”
 Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Tơdah ƀing gih jing ană tơčô Abraham, sĭt ƀing gih či ngă tui hăng tơlơi bruă Abraham ngă yơh.
40Bơ kơ ră anai, ƀing gih hơduah jơlan kiăng pơdjai hĭ Kâo, jing Pô hơmâo ruai laih tơlơi sĭt kơ ƀing gih kơ tơlơi Kâo hơmư̆ laih mơ̆ng Ơi Adai. Abraham ƀu hơmâo ngă ôh tơlơi kar hăng anŭn. 41Ƀing gih hlak ngă tui hăng tơlơi bruă ama gih pô ngă yơh.”
 Ƀing gơñu pơhiăp pơkơdơ̆ng glaĭ tui anai, “Ƀing gơmơi ƀu djơ̆ kar hăng ană pi pum ôh. Kơnơ̆ng ha čô Ama sĭt ƀing gơmơi hơmâo, anŭn jing Ơi Adai pô yơh.”

Ană Bă Satan

42Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Tơdah Ơi Adai jing Ama gih, ƀing gih či khăp kơ Kâo yơh, yuakơ Kâo tơbiă rai mơ̆ng Ơi Adai laih anŭn ră anai Kâo dŏ pơ anai. Kâo ƀu rai mă hơjăn Kâo pô ôh, samơ̆ Ñu hơmâo pơkiaŏ rai laih Kâo. 43Yua hơget boh hiăp Kâo ƀu rơđah ôh kơ ƀing gih lĕ? Anŭn jing yuakơ ƀing gih ƀu thâo hơmư̆ ôh tơlơi Kâo pơhiăp. 44Ƀing gih lŏm kơ Satan jing kar hăng ama kơ ƀing gih, laih anŭn ƀing gih kiăng tui hăng tơlơi ama gih kiăng yơh. Ñu yơh jing pô pơdjai mơnuih čơdơ̆ng mơ̆ng phŭn kơ kơyâo pơtâo mơnơ̆ng mơnuă, ƀu gưt tui hơget tơlơi jing sĭt ôh, yuakơ ƀu hơmâo tơlơi hơget ôh jing sĭt kơ tơlơi ñu. Tơdang ñu pơhiăp ƀlŏr, ñu pơhiăp tui hăng tơlơi kơnuih ñu pô, yuakơ ñu jing pô ƀlŏr laih anŭn phŭn kơ tơlơi ƀlŏr yơh. 45Samơ̆ yuakơ Kâo pơhiăp mơta tơlơi jing sĭt, tui anŭn ƀing gih ƀu đaŏ kơnang kơ Kâo ôh. 46Ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng ƀing gih dưi pơrơklă kơ tơlơi Kâo hơmâo ngă soh laih. Yuakơ Kâo hlak pơhiăp mơta tơlơi jing sĭt, sĭt ƀing gih năng đaŏ kơnang kơ Kâo yơh. 47Hlơi pô lŏm kơ Ơi Adai, ñu anŭn gưt tui tơlơi Ơi Adai pơhiăp yơh. Tơhơnal tơlơi ƀing gih ƀu gưt tui ôh tơlơi Ơi Adai pơhiăp anŭn yuakơ ƀing gih ƀu lŏm kơ Ơi Adai ôh.”

Tơlơi Yêsu Yap Ñu Pô Jing Yom Prŏng Hloh Kơ Abraham

48Ƀing khua djă̱ akŏ ƀing Yehudah laĭ kơ Yêsu tui anai, “Ƀing gơmơi laĭ djơ̆ yơh kơ Ih jing mơnuih Samaria soh sat laih anŭn pô tŭ yang sat git gai.”
49Yêsu pơhiăp tui anai, “Kâo ƀu djơ̆ mơnuih tŭ yang sat git gai ôh, samơ̆ Kâo pơpŭ kơ Ama Kâo laih anŭn ƀing gih ƀu pơpŭ kơ Kâo ôh. 50Kâo ƀu kiăng pơpŭ kơ Kâo pô ôh, samơ̆ hơmâo sa Čô pô kiăng pơpŭ kơ Kâo, laih anŭn Ñu yơh jing Pô phat kơđi pơala brơi kơ Kâo. 51Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, tơdah hlơi pô gưt tui hơdôm boh hiăp Kâo pơtô, ñu anŭn ƀu či djai hĭ ôh.”
52Truh ƀơi mông anŭn, ƀing khua djă̱ akŏ ƀing Yehudah pơhiăp kraih tui anai, “Ră anai ƀing gơmơi thâo yơh kơ tơlơi Ih jing pô tŭ yang sat git gai! Abraham djai laih, laih anŭn ƀing pô pơala ăt djai laih mơ̆n, samơ̆ Ih laĭ kơ tơlơi tơdah hlơi pô gưt tui hơdôm boh hiăp Ih, ñu anŭn ƀu či djai hĭ ôh! 53Sĭt Ih ƀu jing yom prŏng hloh kơ ơi adon gơmơi Abraham ôh! Ñu djai laih, laih anŭn ƀing pô pơala ăt djai hĭ mơ̆n. Tui anŭn, hlơi Ih pơmĭn ih jing lĕ?”
54Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Tơdah Kâo pơpŭ pơyom kơ Kâo pô, tơlơi anŭn či jing hĭ đôč đač yơh. Ama Kâo, jing Pô ƀing gih yap jing Ơi Adai gih, jing Pô pơpŭ pơyom kơ Kâo. 55Wơ̆t tơdah ƀing gih ƀu thâo krăn Ñu ôh, samơ̆ Kâo thâo krăn Ñu. Tơdah Kâo laĭ Kâo ƀu thâo krăn Ñu ôh, Kâo ăt či jing Pô pơhiăp ƀlŏr kar hăng ƀing gih pơhiăp ƀlŏr mơ̆n. Samơ̆ Kâo ƀu dưi laĭ ôh tui anŭn yuakơ Kâo thâo krăn Ñu laih anŭn gưt tui boh hiăp Ñu.
56“Ơi adon gih Abraham mơak biă mă tơdang ñu pơmĭn kơ tơlơi kiăng kơ ƀuh Kâo ƀơi lŏn tơnah anai. Ñu čang rơmang laih kơ tơlơi anŭn, laih anŭn ñu hơ̆k mơak biă mă laih.”
57Ƀing khua djă̱ akŏ ƀing Yehudah laĭ kơ Yêsu tui anai, “Ih aka ƀu truh kơ rơmapluh thŭn ôh, tui anŭn sĭt Ih aka ƀu ƀuh Abraham ôh!”
58Yêsu pơhiăp tui anai, “Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, hlâo kơ hơmâo Abraham, hơmâo laih Kâo!” 59Tơdang ƀing gơñu hơmư̆ tui anŭn, ƀing gơñu mă boh pơtâo kiăng glŏm kơ Yêsu yơh, samơ̆ Yêsu pơdŏp hĭ Ñu pô laih anŭn tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng wăl tơdron sang yang anŭn.