1

Lu-ca thuật lại cuộc đời của Chúa Giê-xu

1Nhiều người đã tường thuật những việc xảy ra giữa chúng ta. 2Họ ghi lại những gì chúng ta đã nghe từ người khác là những người đã chứng kiến những việc ấy từ đầu, và phục vụ Thượng Đế bằng cách phổ biến lời của Chúa cho mọi người. 3Thưa ngài Thi-ô-phi-lơ, vì tôi cũng đã nghiên cứu cẩn thận mọi việc từ đầu, nên tôi thấy cần phải thuật lại cho ngài. Tôi sắp xếp những chuyện ấy 4để ngài biết điều mình đã học là xác thật.

Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét

5Trong thời kỳ vua Hê-rốt cai trị xứ Giu-đia, có một thầy tế lễ tên Xa-cha-ri thuộc nhóm A-bi-gia. Ê-li-xa-bét, vợ Xa-cha-ri thuộc dòng họ A-rôn. 6Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét sống cuộc đời thánh thiện trước mặt Thượng Đế. Cả hai đều vâng giữ những lời dạy của Chúa và luật lệ Ngài một cách hoàn toàn, không chỗ nào chê trách được. 7Nhưng hai ông bà không có con, vì Ê-li-xa-bét không thể sinh con được. Hơn nữa, cả hai người đều cao tuổi.
8Một hôm Xa-cha-ri đang thi hành nhiệm vụ tế lễ trước mặt Thượng Đế, vì ngày đó là phiên của nhóm ông. 9Theo tục lệ bắt thăm giữa các thầy tế lễ, Xa-cha-ri trúng thăm để vào đốt hương nơi đền thờ của Chúa. 10Bên ngoài có rất đông người đang cầu nguyện trong giờ dâng hương. 11Bỗng một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri, đứng bên phải bàn dâng hương. 12Nhìn thấy thiên sứ, Xa-cha-ri giật mình hốt hoảng. 13Nhưng thiên sứ trấn an, “Xa-cha-ri ơi, đừng sợ. Thượng Đế đã nghe lời cầu nguyện của ông rồi. Ê-li-xa-bét, vợ ông sẽ sinh một trai, ông hãy đặt tên là Giăng. 14Con ấy sẽ mang niềm vui sướng cho ông, và nhiều người sẽ mừng rỡ vì nó ra đời. 15Giăng sẽ làm một vĩ nhân cho Chúa; sẽ không uống rượu hay thức uống say, và ngay từ khi mới sinh ra đã được đầy dẫy Thánh Linh. 16Giăng sẽ đưa nhiều người trong Ít-ra-en trở về với Thượng Đế là Chúa mình. 17Người sẽ đi trước mặt Chúa với thần linh và năng quyền của Ê-li. Người sẽ làm cho cha mẹ và con cái hòa thuận với nhau, và đưa những kẻ bất phục tùng Thượng Đế trở về đường chánh, để chuẩn bị dân chúng chào mừng Chúa đến.”
18Xa-cha-ri thưa với thiên sứ, “Làm sao tôi biết được lời ông nói là đúng? Vì tôi đã cao tuổi rồi còn vợ tôi cũng không trẻ trung gì.”
19Thiên sứ đáp, “Tôi là Gáp-ri-ên đứng trước mặt Thượng Đế. Ngài sai tôi đến để báo tin mừng nầy cho ông. 20Bây giờ hãy nghe đây! Ông sẽ bị câm cho đến ngày những điều tôi nói được thành tựu, vì ông không tin điều tôi nói. Những điều ấy chắc chắn sẽ xảy ra.”
21Bên ngoài dân chúng đứng chờ Xa-cha-ri. Họ ngạc nhiên vì Xa-cha-ri ở quá lâu trong đền thờ. 22Khi ông đi ra thì Xa-cha-ri không nói được với họ. Dân chúng hiểu ngay là ông ta đã thấy chuyện lạ trong đền thờ. Ông chỉ có thể ra dấu cho họ trong khi vẫn câm. 23Lúc mãn phiên phục vụ trong đền thờ, Xa-cha-ri trở về nhà.
24Sau đó Ê-li-xa-bét, vợ Xa-cha-ri thụ thai. Bà ở biệt trong nhà suốt năm tháng trời. Ê-li-xa-bét nói rằng, 25“Hãy xem điều Chúa đã làm cho tôi! Đồng bào tôi xấu hổ về tôi nhưng Chúa đã lấy sự xấu hổ khỏi tôi.”

Một thiên sứ hiện ra cùng Ma-ri

26Sau khi Ê-li-xa-bét mang thai được sáu tháng thì Thượng Đế sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến Na-xa-rét, một thị trấn miền Ga-li-lê 27gặp một trinh nữ. Cô đã hứa hôn với một người tên Giô-xép thuộc dòng họ vua Đa-vít. Cô tên Ma-ri. 28Thiên sứ đến gặp cô và nói, “Chào cô! Chúa đã ban phúc cho cô và ở cùng cô.”
29Nhưng Ma-ri sửng sốt về lời chào của thiên sứ, không hiểu lời ấy có nghĩa gì.
30Thiên sứ bảo cô, “Cô Ma-ri ơi, đừng sợ; Thượng Đế đã ban ân phúc Ngài trên cô. 31Hãy nghe đây. Cô sẽ mang thai và sinh một bé trai, cô hãy đặt tên là Giê-xu. 32Em bé ấy sẽ rất cao trọng và được gọi là Con của Đấng Tối Cao. Thượng Đế sẽ cho Ngài ngôi vua Đa-vít là tổ tiên Ngài. 33Ngài sẽ trị vì con cháu nhà Gia cốp mãi mãi. Nước Ngài còn đời đời.”
34Ma-ri thưa với thiên sứ, “Làm sao chuyện ấy xảy ra được, trong khi tôi là một trinh nữ?”
35Thiên sứ đáp, “Thánh Linh sẽ đến trên cô và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ che phủ cô. Vì thế mà hài nhi sinh ra sẽ là hài nhi thánh và được gọi là Con Thượng Đế. 36Hiện thời Ê-li-xa-bét, bà con cô đang mang thai một bé trai, mặc dù bà rất cao tuổi. Ai cũng nghĩ bà ấy không thể nào sinh con được, tuy nhiên bà đã mang thai được sáu tháng rồi. 37Vì việc gì Thượng Đế làm cũng được cả!”
38Ma-ri thưa, “Tôi đây là đầy tớ của Chúa. Xin việc ấy được thành theo điều người nói!” Rồi thiên sứ từ giã Ma-ri.

Ma-ri thăm Ê-li-xa-bét

39Ma-ri vội vã đi tới một thị trấn trong vùng đồi núi miền Giu-đia. 40Cô đến nhà Xa-cha-ri và chào Ê-li-xa-bét. 41Khi Ê-li-xa-bét nghe tiếng Ma-ri chào thì bào thai trong bụng bà nhảy lên và Ê-li-xa-bét được đầy Thánh Linh. 42Bà kêu lên, “Thượng Đế đã ban phúc cho chị nhiều hơn các phụ nữ khác và Ngài cũng ban phúc cho hài nhi chị sắp sinh ra. 43Tại sao tôi được diễm phúc nầy, là mẹ của Chúa tôi đến thăm tôi? 44Khi tôi vừa nghe tiếng của chị, thì bào thai trong bụng tôi nhảy mừng. 45Chị được ân phúc, vì chị tin rằng điều gì Chúa nói cùng với chị sẽ thành tựu.”

Ma-ri ca ngợi Thượng Đế

46Rồi Ma-ri nói rằng,
  “Linh hồn tôi ca tụng Chúa;
  47Lòng tôi vui mừng trong Thượng Đế là Chúa Cứu Thế của tôi,
  48vì Ngài đoái đến đầy tớ gái hèn mọn của Ngài.
   Từ nay về sau mọi người sẽ cho tôi là người có phúc,
  49vì Đấng Toàn Năng đã làm những điều kỳ diệu cho tôi.
   Danh Ngài là Thánh.
  50Thượng Đế sẽ tỏ lòng nhân từ của Ngài
   cho những người thờ kính và phục vụ Ngài đến mãi mãi.
  51Ngài đã làm những việc lớn lao do quyền năng của Ngài.
   Ngài phân tán những kẻ kiêu ngạo và kẻ tự đề cao mình.
  52Ngài hạ bệ các kẻ cầm quyền khỏi ngôi họ
   và nâng những kẻ khiêm nhường lên.
  53Ngài cho những kẻ đói đầy đủ thức ăn ngon,
   và đuổi những kẻ giàu đi ra tay không.
  54Ngài giúp đỡ tôi tớ Ngài là dân Ít-ra-en,
   và không quên tỏ ra lòng nhân từ của Ngài đối với họ
  55như Ngài đã hứa cùng tổ tiên của chúng ta,
   cùng Áp-ra-ham và con cháu người đến mãi mãi.”
56Ma-ri ở chơi với Ê-li-xa-bét khoảng ba tháng rồi trở về nhà.

Giăng Báp-tít ra đời

57Đến kỳ sinh nở, Ê-li-xa-bét sinh ra một bé trai. 58Láng giềng và bà con đến chung vui vì nghe Chúa đã tỏ lòng nhân từ đối với bà.
59Khi em bé được tám ngày, thì người ta đến làm phép cắt dương bì cho em. Họ định đặt tên em là Xa-cha-ri theo tên cha, 60nhưng bà mẹ bảo, “Không! Phải đặt tên nó là Giăng.”
61Họ bảo Ê-li-xa-bét, “Nhưng trong họ hàng bà không ai có tên ấy.” 62Họ liền ra dấu cho cha đứa bé hỏi xem ông muốn đặt tên gì.
63Xa-cha-ri xin tấm bảng nhỏ rồi viết lên, “Tên nó là Giăng.” Mọi người đều kinh ngạc. 64Ngay lúc ấy Xa-cha-ri nói được trở lại và ca tụng Thượng Đế. 65Hàng xóm, láng giềng đâm ra lo sợ, còn dân chúng khắp vùng đồi núi Giu-đia không ngớt bàn tán về chuyện đó. 66Những người nghe chuyện hỏi nhau rằng, “Em bé ấy lớn lên sẽ ra sao?” vì quyền năng của Chúa ở cùng cậu ấy.

Xa-cha-ri ca ngợi Thượng Đế

67Bấy giờ Xa-cha-ri, cha của Giăng đầy Thánh Linh và nói tiên tri:
  68“Chúng ta hãy ca ngợi Chúa là Thượng Đế của Ít-ra-en,
   vì Ngài đến cứu giúp dân Ngài và giải thoát họ.
  69Ngài đã cho chúng ta một Đấng Cứu Thế quyền năng,
   xuất thân từ gia đình Đa-vít, tôi tớ Ngài.
  70Qua các nhà tiên tri thánh của Chúa đã sống từ ngàn xưa,
   Ngài hứa sẽ hoàn thành điều ấy:
  71Ngài hứa sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù
   và khỏi thế lực của những kẻ ghét chúng ta.
  72Ngài hứa sẽ tỏ lòng nhân từ cho cha ông chúng ta
   và cam kết sẽ giữ lời hứa thánh của Ngài.
  73Ngài hứa với Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta
  74rằng Ngài sẽ giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của kẻ thù
   để chúng ta có thể phục vụ Ngài mà không sợ hãi,
  75để chúng ta trở nên thánh thiện và nhân đức
   trước mặt Ngài suốt đời chúng ta.
  76Bây giờ, con ơi, con sẽ được gọi là nhà tiên tri của Đấng Tối Cao.
   Con sẽ đi trước để dọn đường cho Chúa.
  77Con sẽ khiến cho dân Ngài biết là họ sẽ được cứu,
   khi tội họ được xóa hết.
  78Do lòng nhân từ thương xót của Thượng Đế,
   một bình minh mới từ thiên đàng sẽ chiếu trên chúng ta.
  79Ánh sáng sẽ chiếu trên những kẻ sống trong tăm tối,
   ở dưới bóng chết, và dẫn chúng ta vào lối đi hòa bình.”
80Đứa trẻ lớn lên, tinh thần thêm mạnh mẽ. Giăng sống trong đồng hoang cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.

1

1Ơ achuaih Theu-phulơ ơi! Bữn clứng cũai khoiq táq puai mứt pahỡm alới dŏq chĩc tễ máh ranáq Yê-su. Máh parnai ki khoiq toâq pỡ hái chơ. 2Máh cũai ki dáng tễ ranáq Yê-su cỗ alới bữn sâng tễ cũai ca lứq hữm án tễ dâu. Chơ, cũai ki atỡng máh parnai o ki yỗn hái ễn dáng. 3Dâu lứq, cứq khoiq rien samoât samơi lứq tễ nheq máh ŏ́c cũai ki atỡng. Yuaq ngkíq, cứq yoc ễ chĩc máh ŏ́c ki yỗn mới. 4Cứq táq ngkíq ễq mới dáng samoât samơi tễ máh ŏ́c noau khoiq atỡng mới.

Ranễng Yiang Sursĩ Atỡng Tễ Yang Ca Táq Batễm

5Bo dỡi Hê-rôt cỡt puo tâng cruang Yudê, bữn manoaq tễ tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ ramứh Sa-chari. Án la tễ tŏ́ng toiq Abia, la cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ tễ mbŏ́q. Lacuoi Sa-chari ramứh Ê-li-sabet la tễ tŏ́ng toiq Arôn. 6Alới bar náq nâi la cũai tanoang o yáng moat Yiang Sursĩ. Alới trĩh samoât samơi máh ŏ́c Yiang Sursĩ patâp, cớp tỡ bữn noau têq tếq alới táq lôih. 7Alới tỡ bữn bữn con, yuaq Ê-li-sabet la cũai cũt, cớp alới bar náq khoiq thâu hỡ.
8-9Tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ bữn rit tampễq táq ranáq cỡt tỗp. Bữn muoi tangái tỗp Sa-chari rưoh Sa-chari na séng, yỗn án mut tễng rit sang yáng moat Yiang Sursĩ. Alới yỗn án mut tacât crơng phuom tâng prông tâng clống Dống Sang Toâr. 10Bo Sa-chari mut tacât crơng phuom, bữn clứng cũai ỡt rôm câu yáng tiah. 11Chơ bữn ranễng Yiang Sursĩ tễ paloŏng toâq pỡ Sa-chari. Ranễng ki tayứng coah atoam prông dốq noau tacât crơng phuom. 12Toâq Sa-chari hữm ranễng ki, án sâng dớt lứq cớp án ngcŏh. 13Ma ranễng ki atỡng án neq: “Sa-chari ơi! Mới chỗi ngcŏh ntrớu. Yiang Sursĩ khoiq roap chơ santoiq mới câu. Ê-li-sabet, lacuoi mới, nỡ‑ra án canỡt muoi lám con samiang. Cóq anhia amứh con ki ramứh Yang. 14Nỡ‑ra mứt pahỡm mới sâng bũi ỡn lứq cỗ nhơ mới bữn con samiang. Cớp clứng cũai sâng bũi tê toâq tangái con samiang ki canỡt, 15yuaq Yiang Sursĩ pasếq án clữi tễ cũai canŏ́h. Cóq án chỗi nguaiq blŏ́ng sariau ntrớu. Cớp án bữn Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm án tễ tangái mpiq án canỡt án. 16Nỡ‑ra án táq yỗn clứng lứq cũai I-sarel píh sa‑âm loah Yiang Sursĩ, Ncháu alới. 17Nỡ‑ra án bữn mứt pahỡm cớp chớc samoât Ê-li, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ. Án pỡq nhũang Ncháu. Án táq yỗn mpoaq cớp con cỡt loah muoi mứt. Cớp án táq yỗn alới ca tỡ bữn trĩh ngê Yiang Sursĩ píh táq ranáq tanoang o ễn. Án chuai máh cũai ralêq loah mứt pahỡm dŏq Ncháu têq ndỡm alới.”
18Sa-chari blớh ranễng ki neq: “Nŏ́q cứq têq dáng ŏ́c ki lứq pĩeiq? Cứq cớp lacuoi cứq khoiq thâu chơ.”
19Ma ranễng ki ta‑ỡi án neq: “Ramứh cứq la Capriel. Cứq la ranễng Yiang Sursĩ ca dốq tayứng yáng moat án. Án ớn cứq toâq atỡng yỗn mới dáng tễ ramứh o nâi. 20Sanua mới cỡt ngong toau toâq tangái máh ramứh nâi toâq, yuaq mới tỡ bữn noap parnai cứq. Ngư máh ramứh nâi toâq, ki santruoq ariang cứq khoiq pai.”
21Bo ki bữn clứng cũai ỡt acoan Sa-chari yáng tiah. Alới sâng salễh Sa-chari ỡt dũn tâng dống sang ki. 22Tữ Sa-chari loŏh, án tỡ têq táq ntỡng muoi ŏ́c ntrớu. Ngkíq, alới dáng án khoiq hữm Yiang Sursĩ sapáh baih tâng dống sang. Cớp Sa-chari atỡng alới toâq atĩ sâng, yuaq bỗq án táq ntỡng tỡ luoh noâng.
23Moâm Sa-chari táq ranáq tâng dống sang, chơ án chu pỡ dống án. 24Vớt máh tangái ki Ê-li-sabet lacuoi Sa-chari, ỡt mumiaq. Chơ Ê-li-sabet ỡt níc tâng dống, tỡ bữn pỡq chu léq sám sỡng casâi. 25Cớp án pai neq: “Sanua cứq bũi ỡn lứq Yiang Sursĩ yỗn cứq ỡt mumiaq, yỗn cứq tỡ bữn casiet táq noâng yáng moat cũai canŏ́h cỗ cứq ŏ́q con.”

Ranễng Yiang Sursĩ Atỡng Tễ Sễt Yê-su

26Ê-li-sabet ỡt mumiaq khoiq tapoât casâi chơ. Tâng casâi ki Yiang Sursĩ ớn ranễng án, Capriel, pỡq chu vil Na-sarễt tâng cruang Cali-lê. 27Án dững parnai Yiang Sursĩ toâq pỡ manoaq cumũr ca tỡ nai bếq cớp samiang yũah. Ramứh án la Mari. Mpiq mpoaq án khoiq par‑ữq yỗn án racoâiq cớp manoaq ramứh Yô-sep. Yô-sep la tễ tŏ́ng toiq Davĩt, la puo cũai I-sarel tễ mbŏ́q. 28Ranễng Yiang Sursĩ ki toâq pỡ Mari, cớp án pai neq: “Bán tê Mari. Yiang Sursĩ lứq ỡt cớp mới, cớp án yỗn mới bữn ŏ́c bốn lứq!”
29Tữ Mari sâng parnai ranễng ki pai, án sâng dớt cớp croŏq lứq. Án tỡ dáng ntrớu ranễng ki ễ pai chóq án. 30Ranễng ki atỡng án neq: “Mari ơi! Mới chỗi ngcŏh ntrớu, yuaq Yiang Sursĩ khoiq rưoh mới yỗn bữn ŏ́c bốn. 31Tỡ bữn dũn mới ỡt mumiaq; chơ mới canỡt muoi lám con samiang. Cóq mới amứh án la Yê-su. 32Nỡ‑ra án cỡt sốt, cớp noau dŏq án la Con Yiang Sursĩ ca sốt clữi nheq tễ canŏ́h. Lứq Yiang Sursĩ, Ncháu hái, chóh yỗn án cỡt puo machớng achúc achiac án Davĩt tễ mbŏ́q tê. 33Án lứq cỡt puo máh tŏ́ng toiq Yacốp mantái níc. Án cỡt puo toau sốt nheq dỡi!”
34Mari ta‑ỡi ranễng ki neq: “Nŏ́q têq ramứh nâi toâq pỡ cứq? Cứq tỡ yũah bếq parnơi cớp cũai samiang aléq?”
35Ma ranễng ta‑ỡi án neq: “Ntun nâi Raviei Yiang Sursĩ ỡt cớp mới. Cớp Yiang Sursĩ ca sốt clữi nheq tễ canŏ́h lứq kĩaq pasếq níc mới. Ngkíq mới bữn con bráh o lứq. Noau dŏq con mới la Con Yiang Sursĩ. 36Mới sanhữ tễ ỡi mới Ê-li-sabet. Án la cũai khoiq thâu chơ, cớp noau pai án la cũai cũt. Ma sanua án ỡt mumiaq muoi lám con samiang. Án ỡt mumiaq khoiq tapoât casâi chơ. 37Yiang Sursĩ têq táq nheq dũ ranáq.”
38Chơ Mari ta‑ỡi neq: “Cứq la cũai táq ranáq Yiang Sursĩ. Cứq sễq máh ramứh mới pai yỗn lứq toâq pỡ cứq.”
 Vớt ki ranễng pỡq tễ Mari.

Mari Pỡq Sa‑óh Ê-li-sabet

39Tâng máh tangái ki, Mari thrũan pỡq chu muoi vil tâng dũal cóh pỡ cruang Yudê. Án pỡq chái lứq ễq yỗn toâq pỡ vil ki. 40Tữ án toâq, án mut tâng dống Sa-chari, cớp án cubán Ê-li-sabet. 41Bo Ê-li-sabet sâng Mari cubán án, ngkíq con tâng púng án rachâu. Cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm Ê-li-sabet. 42Chơ Ê-li-sabet pai casang lứq neq: “Yiang Sursĩ lứq yỗn mới bữn ŏ́c bốn hỡn nheq tễ mansễm canŏ́h! Cớp con cớt cớt tâng púng mới lứq bữn ŏ́c bốn tê! 43Yuaq nŏ́q mpiq Ncháu cứq toâq sa‑óh cứq? Ŏ́c nâi la toâr lứq yỗn cứq! 44Bo cứq sâng parnai mới cubán cứq, con cớt cớt tâng púng cứq rachâu, yuaq án sâng bũi tê. 45Bốn lứq mới, yuaq mới sa‑âm máh parnai Yiang Sursĩ atỡng mới lứq cỡt rapĩeiq!”

Mari Khễn Yiang Sursĩ

46Chơ Mari pai neq:
  “Cứq khễn Ncháu cứq nheq rangứh.
  47Cớp mứt pahỡm cứq sâng bũi hỡr,
   yuaq Yiang Sursĩ la Yiang ca chuai amoong cứq.
  48Cứq la cũai cớt cớt lứq táq ranáq án,
   ma noâng án nhêng cớp chuai cứq.
  Tễ sanua toau toâq ntun,
   dũ dỡi cũai dŏq cứq la cũai bữn ŏ́c bốn,
  49yuaq Yiang Sursĩ ca bữn chớc toâr lứq,
   táq ranáq o yỗn cứq.
  Ramứh án la bráh o lứq.
  50Án ayooq táq máh cũai ca yám án,
   tễ dỡi mbŏ́q toau toâq dỡi chumát.
  51Án khoiq táq ranáq toâr lứq toâq atĩ án toâp.
   Cớp án khoiq tuih máh cũai ca chanchớm alới toâr hỡn cớp o hỡn tễ cũai canŏ́h.
  52Alới ca sốt toâr, án khoiq táq yỗn alới cỡt tỡ bữn sốt noâng.
   Ma alới ca cacớt, án khoiq achỗn alới cỡt toâr.
  53Máh cũai ŏ́q, án khoiq yỗn alới bữn dũ crơng o.
   Ma máh alới ca sốc, án yỗn alới chu atĩ miat.
  54Án tỡ bữn khlĩr máh ŏ́c parkhán án khoiq parkhán cớp achúc achiac hếq.
   Cớp án khoiq chuai máh cũai I-sarel ca táq ranáq án.
  55Án ayooq táq A-praham cớp máh tŏ́ng toiq A-praham mantái níc!”
56Moâm Mari pai máh santoiq ki, chơ án ỡt cớp Ê-li-sabet bữn pái casâi. Vớt ki án chu loah pỡ dống án.

Ê-li-sabet Sễt Yang

57Chơ toâq ngư Ê-li-sabet sễt con án, án sễt muoi lám con samiang. 58Máh cũai tâng vil ki, cớp máh sễm ai án khoiq sâng tễ ranáq Yiang Sursĩ sarũiq táq Ê-li-sabet. Ngkíq, alới pruam sâng bũi tê cớp Ê-li-sabet.
59Toâq con cớt cớt ki bữn tacual tangái, alới pỡq táq rit cứt yỗn con alới. Alới yoc ễ amứh án la Sa-chari, tũoiq ramứh mpoaq án. 60Ma mpiq án pai neq: “Tỡ bữn! Hái dŏq ramứh án la Yang.”
61Ma máh cũai ki pai neq: “Ma tâng sâu mới tỡ bữn noau bữn ramứh ngkíq!”
62Chơ alới blớh mpoaq con ki toâq atĩ. Alới blớh án ntrớu án ễ amứh con án. 63Sa-chari sễq muoi khlễc pian cacớt; chơ án chĩc tâng pian ki neq: “Ramứh án la Yang.”
 Ngkíq nheq cũai ki sâng dớt lứq!
64Bo ki toâp Sa-chari têq táq ntỡng loah, cớp án khễn Yiang Sursĩ. 65Máh cũai tâng vil ki sâng dớt lứq. Cớp ranáq ki trŏ́h la‑ữt la‑ữi dũ ntốq tâng máh dũal cóh tâng cruang Yudê. 66Máh cũai ca sâng tễ ramứh ki, alới cayớm dŏq tâng mứt, cớp manoaq blớh manoaq neq: “Carnễn nâi nỡ‑ra án cỡt nŏ́q?” Yuaq Yiang Sursĩ lứq ỡt cớp án.

Sa-chari Khễn Yiang Sursĩ

67Chơ Sa-chari mpoaq carnễn ki bữn Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm án. Ngkíq án atỡng parnai tễ Yiang Sursĩ neq:

  68“Cóq hái khễn Ncháu hái,
   la Yiang Sursĩ cũai I-sarel sang.
  Lứq án toâq chuai máh cũai án,
   cớp án thái alới tễ ŏ́c lôih.
  69Án yỗn manoaq ca bữn chớc lứq
   toâq chuai amoong hái.
  Manoaq ki toâq tễ tŏ́ng toiq puo Davĩt,
   la cũai táq ranáq Yiang Sursĩ.
  70Nheq ramứh nâi Yiang Sursĩ khoiq atỡng tễ mbŏ́q
   toâq máh cũai tang bỗq án ca bráh o lứq.
  71Án khoiq ữq ễ chuai hái yỗn vớt tễ cũai ễ táq hái,
   cớp tễ atĩ cũai kêt hái.
  72Án khoiq ayooq táq achúc achiac hái.
   Cớp án tỡ nai khlĩr máh ŏ́c án khoiq par‑ữq tễ nhũang.
  73Án khoiq parkhán cớp A-praham
   la achúc achiac hái,
  74cớp án ữq neq: Án ễ chuai hái
   yỗn vớt tễ atĩ cũai ễ táq hái.
  Ngkíq, án yỗn hái táq ranáq án,
   tỡ bữn ngcŏh ntrớu;
  75cớp hái ỡt tanoang o cớp bráh o yáng moat án
   nheq dỡi tamoong hái.

  76“Con cứq ơi! Nỡ‑ra noau dŏq mới
   la manoaq tang bỗq Yiang Sursĩ, án ca sốt clữi nheq tễ canŏ́h,
  yuaq mới bữn pỡq nhũang Ncháu hái,
   cớp cháh rana yỗn án.
  77Cớp mới lứq atỡng yỗn máh cũai án dáng,
   la Yiang Sursĩ táh lôih alới
   yỗn án têq chuai amoong alới.
  78Yuaq Yiang Sursĩ hái sâng sarũiq táq,
   ngkíq án yỗn manoaq ca án rưoh toâq pỡ hái,
   dŏq chuai amoong cũai.
  79Cũai ki toâq tễ paloŏng,
   cớp án táq yỗn máh cũai tỡ bữn ngcŏh cuchĩt noâng.
  Cớp án ayông hái pỡq tâng rana ien khễ.”
80Ngkíq, con ki toâr achỗn cớp mứt pahỡm án yoc lứq puai ngê Yiang Sursĩ. Án ỡt tâng ntốq aiq toau toâq tangái án tabŏ́q táq ranáq apáh yỗn máh cũai I-sarel hữm.