21

Sự vào thành Giê-ru-sa-lem

(Mac 11:1-11; Lu 19:28-40; Gi 12:12-19)

1 Vừa khi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ gần đến thành Giê-ru-sa-lem, và đã tới thành Bê-pha-giê, bên núi Ô-li-ve rồi, thì Ngài sai hai môn đồ, 2 mà phán rằng: Hãy đi đến làng ở trước mặt các ngươi, tức thì sẽ gặp một con lừa cái bị cột, với một con lừa con; hãy mở ra và dắt đến cho ta. 3 Nếu có ai nói chi với các ngươi, hãy trả lời rằng Chúa cần dùng hai con lừa đó; tức thì họ sẽ gửi lừa đi. 4 Vả, điều ấy xảy ra để cho ứng nghiệm lời của đấng tiên tri rằng:
5 Hãy nói với con gái thành Si-ôn rằng:
 Nầy, vua ngươi đến cùng ngươi,
 Nhu mì, cỡi lừa
 Và lừa con, là con của lừa cái mang ách.
6 Hai môn đồ bèn đi, và làm y theo lời Đức Chúa Jêsus đã dạy. 7 Hai người dắt lừa cái và lừa con, trải áo mình trên lưng lừa, và nâng Ngài cỡi lên. 8 Bấy giờ phần nhiều trong đám dân đông trải áo mình trên đường; kẻ khác chặt nhánh cây mà rải ra giữa đường. 9 Đoàn dân đi trước và theo sau đều kêu lên rằng: Hô-sa-na con vua Đa-vít! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hô-sa-na ở trên nơi rất cao!
10 Khi Ngài đã vào thành Giê-ru-sa-lem, thì cả thành đều xôn xao, nói rằng: Người nầy là ai? 11 Chúng trả lời rằng: Ấy là Đấng tiên tri Jêsus ở thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê.

Sự dẹp sạch trong đền thờ. – Cây vả khô

(Mac 11:15-19; Lu 19:45-48; Gi 2:13-22 – Mac 11:12-14,20-24)

12 Đức Chúa Jêsus vào đền thờ, đuổi hết kẻ bán người mua ở đó; đổ bàn của người đổi bạc, và ghế của người bán bồ câu. 13 Ngài phán cùng họ rằng: Có lời chép: Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện; nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp. 14 Bấy giờ, những kẻ mù và què đến cùng Ngài trong đền thờ, thì Ngài chữa cho họ được lành. 15 Nhưng các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo thấy sự lạ Ngài đã làm, và nghe con trẻ reo lên trong đền thờ rằng: Hô-sa-na con vua Đa-vít! Thì họ tức giận, 16 và nói với Ngài rằng: Thầy có nghe điều những đứa trẻ nầy nói không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Có. Vậy chớ các ngươi chưa hề đọc lời nầy: Chúa đã được ngợi khen bởi miệng con trẻ và con đương bú, hay sao? 17 Đoạn, Ngài bỏ họ, đi ra khỏi thành mà đến làng Bê-tha-ni và nghỉ đêm ở đó.
18 Sáng mai, khi trở lại thành thì Ngài đói. 19 Thấy một cây vả ở bên đường, Ngài bèn lại gần, song chỉ thấy những lá mà thôi, thì Ngài phán cùng cây vả rằng: Mầy chẳng khi nào sanh ra trái nữa! Cây vả tức thì khô đi. 20 Môn đồ thấy điều đó, lấy làm kỳ, nói rằng: Cớ sao trong giây phút mà cây vả liền khô đi vậy? 21 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi có đức tin, và không nghi ngờ chi hết, thì chẳng những các ngươi làm được điều đã làm cho cây vả mà thôi, song dầu các ngươi biểu hòn núi nầy rằng: Hãy cất mình lên và quăng xuống biển, điều đó cũng sẽ làm được. 22 Trong khi cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều được cả.

Lời hỏi về quyền phép

23 Đức Chúa Jêsus vào đền thờ rồi, đương giảng đạo, có các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân đến mà hỏi rằng: Bởi quyền phép nào mà thầy làm những sự nầy, và ai đã cho thầy quyền phép ấy? 24 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta cũng sẽ hỏi các ngươi một điều; nếu trả lời được, thì ta cũng sẽ nói cho các ngươi bởi quyền phép nào mà ta đã làm những việc đó. 25 Phép báp-têm của Giăng bởi đâu? Bởi trên trời hay là bởi người ta? Vả, họ bàn riêng với nhau như vầy: Nếu chúng ta đáp rằng: Bởi trên trời, thì người sẽ nói với ta rằng: Vậy sao không tin lời người ấy? 26 Còn nếu đáp rằng: Bởi người ta, thì chúng ta sợ thiên hạ, vì thiên hạ đều cho Giăng là đấng tiên tri. 27 Vậy, họ trả lời Đức Chúa Jêsus rằng: Chúng tôi không biết. Ngài bèn phán cùng họ rằng: Ta cũng không bảo cho các ngươi bởi quyền phép nào mà ta làm những điều nầy.

Lời ví dụ về hai con trai

28 Các ngươi nghĩ làm sao? Một người kia có hai đứa con trai; nói cùng đứa thứ nhứt, mà rằng: Con ơi, bữa nay con hãy ra làm vườn nho. 29 Đứa ấy thưa rằng: Vâng; rồi không đi. 30 Đoạn, người cha đi đến đứa thứ hai, cũng bảo như vậy. Đứa nầy thưa rằng: Tôi không muốn đi. Nhưng sau ăn năn, rồi đi. 31 Trong hai con trai đó, đứa nào làm theo ý muốn của cha? Họ đáp rằng: Đứa thứ hai. Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, những kẻ thâu thuế và phường đĩ điếm sẽ được vào nước Đức Chúa Trời trước các ngươi. 32 Vì Giăng đã theo đường công bình đến cùng các ngươi, nhưng các ngươi không tin, còn những kẻ thâu thuế và phường đĩ điếm đã tin người; và các ngươi, khi đã thấy điều ấy, sau cũng không ăn năn đặng tin người.

Lời ví dụ về người trồng nho

33 Hãy nghe lời ví dụ khác. Có người chủ nhà kia, trồng một vườn nho, rào chung quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và cất một cái tháp; rồi cho những kẻ trồng nho mướn, và đi qua xứ khác. 34 Đến mùa hái trái, người chủ sai đầy tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu hoa lợi. 35 Bọn trồng nho bắt các đầy tớ, đánh người nầy, giết người kia, và ném đá người nọ. 36 Người chủ lại sai đầy tớ khác đông hơn khi trước; thì họ cũng đối đãi một cách. 37 Sau hết, người chủ sai chính con trai mình đến cùng họ, vì nói rằng: Chúng nó sẽ kính trọng con ta. 38 Nhưng khi bọn trồng nho thấy con đó, thì nói với nhau rằng: Người nầy là kẻ kế tự đây; hè! Hãy giết nó đi và chiếm lấy phần gia tài nó. 39 Họ bèn bắt con ấy, quăng ra ngoài vườn nho, và giết đi. 40 Vậy, khi người chủ vườn nho đến, thì sẽ xử với bọn làm vườn ấy thể nào? 41 Chúng trả lời rằng: Người chủ sẽ diệt đồ hung ác ấy cách khổ sở, và cho bọn trồng nho khác mướn vườn ấy, là kẻ sẽ nộp hoa lợi lúc đến mùa. 42 Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Các ngươi há chưa hề đọc lời trong Kinh thánh:
 Hòn đá đã bị người xây nhà bỏ ra,
 Trở nên đá đầu góc nhà;
 Ấy là việc Chúa làm,
 Và là một sự lạ trước mắt chúng ta, hay sao?
43 Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó. 44 Kẻ nào rơi trên hòn đá ấy sẽ bị giập nát, còn kẻ nào bị đá ấy rớt nhằm thì sẽ tan tành như bụi.
45 Các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si nghe những lời ví dụ đó, thì biết Ngài nói về mình. 46 Họ bèn tìm cách để bắt Ngài; song sợ thiên hạ, vì thiên hạ tôn Ngài là đấng tiên tri.

21

Yêsu Mŭt Pơ Plei Yerusalaim Hăng Tơlơi Mơak Mơai

(Markôs 11:1-11; Luk 19:28-40; Yôhan 12:12-19)

1Tơdang ƀing gơñu anăp nao pơ plei prŏng Yerusalaim, ƀing gơñu nao truh pơ plei Bêtphagê jĕ pơ bŏl čư̆ Ôliwơ. Giŏng anŭn, Yêsu pơkiaŏ dua čô ƀing ding kơna Ñu nao hlâo, 2laih anŭn pơtă kơ ƀing gơñu tui anai, “Nao bĕ pơ plei gah anăp kơ ƀing gih anŭn! Tơdang ƀing gih mŭt amăng plei anŭn, ƀing gih či ƀuh mơtam sa drơi aseh glai ania arăng akă wơ̆t hăng ană aseh anŭn mơ̆n. Tơlĕh hĭ bĕ dua drơi aseh anŭn laih anŭn ba rai pơ Kâo anai! 3Tơdah hơmâo hlơi pô tơña yua hơget ƀing gih ngă tui anŭn, brơi kơ ƀing gih laĭ glaĭ bĕ kơ pô anŭn tui anai, ‘Khua ta, jing Pô arăng iâu Khua Yang yơh, kiăng kơ yua dua drơi aseh anai.’ Tui anŭn, arăng či brơi kơ ƀing gih dui ba mơtam yơh.”
4Abih bang tơlơi anŭn truh kiăng kơ krep djơ̆ tui hăng tơlơi Khua Yang hơmâo pơhiăp laih mơ̆ng pô pơala tui anai,
  5“Laĭ brơi bĕ kơ ƀing ană plei plei Ziôn thâo,
   anai nê, pơtao ih rai pơ ih,
   Ñu luă gŭ laih anŭn đĭ ƀơi sa drơi aseh glai,
   anŭn jing ƀơi ană aseh glai yơh.”
6Giŏng anŭn, dua čô ding kơna Ñu anŭn nao laih anŭn ngă tui hăng tơlơi Yêsu hơmâo pơtă laih kơ ƀing gơñu. 7Ƀing gơñu ba rai aseh glai ania anŭn wơ̆t hăng ană aseh anŭn mơ̆n laih anŭn tap ao gơñu ƀơi rŏng aseh anŭn, laih anŭn Yêsu đĭ dŏ ƀơi ngŏ ao anŭn. 8Hơmâo lu mơnuih tap ao gơñu ƀơi jơlan laih anŭn ƀing pơkŏn dơ̆ng kŏh lu than kơyâo rap ƀơi jơlan. 9Hơmâo đơđa ƀing mơnuih lu nao hlâo laih anŭn đơđa nao tơdơi kơ Yêsu laih anŭn ƀing gơñu čơdơ̆ng pơhiăp kraih tui anai,
  “Hôsanna kơ Ană Tơčô pơtao Dawid!
   Bơni hiam yơh kơ Pô rai amăng anăn Khua Yang!
   Hôsanna kơ Ơi Adai!”
10Tơdang Yêsu mŭt amăng plei Yerusalaim, abih bang ƀing ană plei le̱ng kơ pơđĭ pran jua biă mă. Hơmâo đơđa mơnuih tơña, “Hlơi Pô anŭn lĕ?”
11Ƀing mơnuih lu rai hăng Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Anŭn jing Yêsu, pô pơala rai mơ̆ng plei Nazaret amăng kwar Galilê!”

Yêsu Puh Pơđuaĭ Hĭ Ƀing Sĭ Mơnia Wơ̆t Hăng Ƀing Blơi Mơ̆ng Sang Yang Ơi Adai

(Markôs 11:15-19; Luk 19:45-48; Yôhan 2:13-22)

12Yêsu mŭt nao amăng anih wăl tơdron Sang Yang laih anŭn puh pơđuaĭ hĭ abih bang ƀing sĭ mơnia wơ̆t hăng ƀing blơi amăng anih anŭn. Ñu tơlư̆ pơkŭp kơƀa̱ng ƀing mơnuih pơplih prăk wơ̆t hăng grê ƀing mơnuih dŏ sĭ čim pơrơgŏm mơ̆n. 13Laih anŭn Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu, “Hră Ơi Adai hơmâo čih laih tui anai, ‘Sang Kâo arăng či iâu jing sang Iâu Laĭ,’ samơ̆ ƀing gih pơjing hĭ Sang Kâo jing hrup hăng ‘pa̱r ƀing klĕ dŏp.’ ”
14Hơmâo ƀing mơnuih bum mơta hăng ƀing mơnuih jo tơkai nao pơ Yêsu amăng Sang Yang, laih anŭn Ñu pơsuaih hĭ ƀing gơ̆. 15Samơ̆ ƀing khua ngă yang prŏng hăng ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt hil kơ Yêsu yơh tơdang ƀing gơñu ƀuh tơlơi mơsêh mơyang Yêsu hơmâo ngă laih. Ƀing gơñu ăt hil mơ̆n tơdang ƀing gơñu hơmư̆ ƀing čơđai pơhiăp kraih amăng Sang Yang tui anai, “Bơni hiam yơh kơ Ană Tơčô pơtao Dawid.” 16Tui anŭn, ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Ih hơmư̆ mơ̆ tơlơi ƀing čơđai anŭn laĭ?”
 Yêsu laĭ glaĭ, “Sĭt, Kâo hơmư̆ yơh. Sĭt ƀing gih ăt đŏk laih mơ̆n tơlơi anai,
  “ ‘Ơ Khua Yang ăh, Ih hơmâo pơhrăm laih ƀing čơđai hăng ƀing ană nge kiăng kơ bơni hơơč hlo̱m ƀo̱m.’ ”
17Giŏng anŭn, Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing gơñu laih anŭn tơbiă nao pơ plei Bêthania. Ñu đŏm glaĭ pơ anŭn sa mlam.

Yêsu Hơtŏm Păh Kơyâo Hra

(Markôs 11:12-14, 20-24)

18Ƀơi mơguah hrơi tŏ tui, tơdang Yêsu hlak wơ̆t glaĭ pơ plei Yerusalaim, Ñu rơpa yơh. 19Tơdang Ñu ƀuh sa ƀĕ kơyâo hra ƀơi akiăng jơlan, Ñu nao jĕ kiăng kơ hơduah boh čroh samơ̆ ƀu hơduah ƀuh ôh samơ̆ kơnơ̆ng ƀuh hla đôč. Giŏng anŭn, Ñu laĭ kơ kơyâo hra anŭn tui anai, “Ŏng ƀu či pơtơbiă rai boh čroh dơ̆ng tah!” Ƀơi mông anŭn mơtam, kơyâo hra anŭn gliu hĭ yơh.
20Tơdang ƀing ding kơna Ñu ƀuh tơlơi anŭn, ƀing gơñu kơtuă hli̱ng hla̱ng biă mă. Ƀing gơñu tơña tui anai, “Hiư̆m pă kơyâo hra gliu hĭ tañ biă mă lĕ?”
21Yêsu laĭ glaĭ, “Kâo laĭ hăng ƀing gih sĭt biă mă, tơdah ƀing gih đaŏ laih anŭn ƀu đing đaŏ hơget gĕt ôh, ƀing gih či dưi ngă yơh kar hăng tơlơi Kâo hơmâo ngă laih kơ kơyâo hra anŭn. Laih anŭn dơ̆ng, ƀu djơ̆ kơnơ̆ng dưi ngă tui anŭn đôč ôh, samơ̆ ƀing gih ăt dưi pơđar kơ bŏl čư̆ anai, ‘Tơgŭ bĕ laih anŭn plĕ bĕ ŏng pô amăng ia rơsĭ.’ Laih anŭn bŏl čư̆ anŭn či ngă tui tơlơi ƀing gih pơđar yơh. 22Tơdah ƀing gih đaŏ, Ơi Adai či brơi kơ ƀing gih mă tŭ yơh hơget tơlơi ƀing gih rơkâo tơdang ƀing gih iâu laĭ.”

Ƀing Khua Djă̱ Akŏ Yehudah Tơña Kơ Tơlơi Dưi Yêsu

(Markôs 11:27-33; Luk 20:1-8)

23Tơdơi kơ Yêsu wơ̆t glaĭ pơ anih wăl tơdron Sang Yang laih anŭn Ñu hlak dŏ pơtô laĭ, ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing kŏng tha Yehudah rai tơña kơ Ñu tui anai, “Mơ̆ng pă Ih dưi ngă hơdôm tơlơi bruă anŭn lĕ? Hlơi pô brơi laih kơ Ih tơlơi dưi anŭn lĕ?”
24Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo ăt či tơña kơ ƀing gih sa tơlơi mơ̆n; tơdah ƀing gih laĭ glaĭ kơ Kâo, Kâo či laĭ brơi kơ ƀing gih yơh mơ̆ng tơlơi dưi pă Kâo hlak dŏ ngă kơ tơlơi bruă anai. 25Tơlơi baptem Yôhan ngă anŭn tơbiă rai mơ̆ng pă lĕ? Mơ̆ng Ơi Adai ƀôdah mơ̆ng mơnuih?”
 Ƀing gơñu čơdơ̆ng pơrơklah hăng tơdruă gơñu tui anai, “Tơdah ƀing ta laĭ, ‘Mơ̆ng Ơi Adai,’ Ñu či laĭ kơ ƀing ta, ‘Tui anŭn, yua hơget ƀing gih ƀu đaŏ kơ Yôhan ôh lĕ?’
26Samơ̆ tơdah ƀing ta laĭ, ‘Mơ̆ng mơnuih,’ ƀing ta huĭ kơ ană plei ta yơh yuakơ ƀing gơñu le̱ng kơ yap Yôhan jing sa čô pô pơala.”
27Tui anŭn, ƀing gơñu laĭ glaĭ kơ Yêsu tui anai, “Ƀing gơmơi ƀu thâo ôh.”
 Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Kâo ăt ƀu či laĭ brơi kơ ƀing gih thâo lơi, mơ̆ng pă Kâo dưi ngă kơ hơdôm tơlơi bruă anŭn.”

Pơhơmutu Kơ Dua Čô Ană Đah Rơkơi

28Yêsu pơtô dơ̆ng hăng ƀing khua anŭn tui anai, “Hơget ƀing gih pơmĭn kơ tơlơi anai lĕ? Hơmâo sa čô mơnuih hơmâo dua čô ană đah rơkơi. Ñu nao laĭ kơ ană kơčoa ñu tui anai, ‘Ơ dăm, hrơi anai ih nao mă bruă bĕ pơ đang boh kơƀâo hŏ.’
29“Ană Kơčoa ñu anŭn hơngah tui anai, ‘Ơ ơh, kâo ƀu kiăng nao ôh.’ Samơ̆ tơdơi kơ anŭn, ñu pơplih jua pơmĭn ñu laih anŭn nao mă bruă.
30“Giŏng anŭn, pô ama nao laĭ kơ ană tơluč ñu kar hăng ñu pơhiăp laih hăng ană kơčoa ñu mơ̆n. Ană tơluč ñu tŭ ư tui anai, ‘Ơ, kâo či nao yơh.’ Samơ̆ tơdơi kơ anŭn, ñu ƀu nao ôh.
31“Amăng dua čô ană anŭn, pô pă ngă tui tơlơi kiăng ama gơñu lĕ?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Pô ană kơčoa yơh.”
 Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo laĭ hăng ƀing gih sĭt biă mă, ƀing mơnuih ring jia sat ƀai laih anŭn ƀing đah kơmơi rĭh răm yơh či dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai pơala kơ ƀing gih.
32Kâo laĭ tui anŭn yuakơ Yôhan pô ngă baptem rai pơtô laih kơ ƀing gih jơlan tơpă hơnơ̆ng samơ̆ ƀing gih ƀu đaŏ ôh kơ tơlơi ñu pơtô. Kơđai glaĭ, ƀing ring jia sat ƀai laih anŭn ƀing đah kơmơi rĭh răm anŭn đaŏ kơ tơlơi anŭn. Laih anŭn dơ̆ng, wơ̆t tơdah ƀing gih ƀuh laih kơ tơlơi ƀing gơ̆ đaŏ anŭn, samơ̆ ƀing gih ăt dŏ hơngah mơ̆n ƀu kiăng pơplih hĭ ôh jua pơmĭn gih kiăng kơ đaŏ kơ tơlơi Yôhan pơtô.”

Pơhơmutu Kơ Ƀing Wai Đang Boh Kơƀâo Sat Ƀai

(Markôs 12:1-12; Luk 20:9-19)

33Yêsu pơtô dơ̆ng kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơmư̆ bĕ kơ tơlơi pơhơmutu anai dơ̆ng: Hơmâo sa čô mơnuih pla đang boh kơƀâo prŏng. Ñu pơdơ̆ng bơnư̆ pơga jum dar, pơkra sa boh anih djet boh kơƀâo laih anŭn pơdơ̆ng đĭ sa boh sang nưh kiăng kơ gak wai. Giŏng anŭn, ñu jao đang anŭn kơ ƀing arăng kiăng kơ răk wai laih anŭn pơpha boh čroh hăng ñu, samơ̆ ñu pô nao pơ anih lŏn pơkŏn sui ƀiă. 34Tơl truh bơyan pĕ boh, ñu pơkiaŏ ƀing ding kơna ñu nao pơ ƀing răk wai đang anŭn kiăng kơ mă brơi boh čroh pơpha mơ̆ng đang anŭn.
35“Ƀing wai đang anŭn mă hĭ ƀing gơ̆, taih hĭ pô anai, pơdjai hĭ pô adih laih anŭn glŏm hĭ boh pơtâo kơ pô anŭn. 36Giŏng anŭn, pô đang anŭn pơkiaŏ ƀing ding kơna ñu pơkŏn dơ̆ng lu hloh kơ hlâo nao pơ ƀing wai đang anŭn, laih anŭn ƀing wai đang anŭn ăt ngă sat kơ ƀing gơ̆ kar kaĭ mơ̆n. 37Hơnăl tuč, ñu pơkiaŏ nao ană đah rơkơi ñu pô pơ ƀing wai đang anŭn yuakơ ñu pơmĭn, ‘Ƀing gơñu či pơpŭ kơ ană kâo pô yơh.’
38“Samơ̆ tơdang ƀing răk wai đang anŭn ƀuh ană pô đang anŭn, ƀing gơñu pơlaĭ kơ tơdruă, ‘Anŭn yơh jing pô či tŭ mă kŏng ngăn ama ñu. Nă, brơi kơ ƀing ta pơdjai hĭ bĕ ñu laih anŭn mă hĭ kŏng ngăn mơ̆ng ñu.’ 39Tui anŭn, ƀing gơñu mă gơ̆, glŏm pơ gah rơngiao đang laih anŭn pơdjai hĭ gơ̆.”
40Giŏng anŭn, Yêsu tơña kơ ƀing khua anŭn tui anai, “Hơnŭn yơh, tơdang pô đang boh kơƀâo anŭn rai, hơget tơlơi ñu či ngă kơ ƀing răk wai đang anŭn lĕ?”
41Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Sĭt pô đang anŭn či pơdjai hĭ ƀing sat ƀai anŭn laih anŭn jao brơi đang boh kơƀâo anŭn kơ ƀing răk wai pơkŏn yơh, jing ƀing či pơpha brơi kơ ñu boh čroh amăng bơyan pĕ hơpuă.”
42Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Sĭt ƀing gih ăt đŏk laih mơ̆n tơlơi anai amăng Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam,
  “ ‘Boh pơtâo ƀing pơdơ̆ng sang hơngah lui ƀu tŭ yua,
   hơmâo jing hĭ laih boh pơtâo phŭn kơ abih bang.
  Khua Yang yơh jing Pô hơmâo ngă laih tơlơi anŭn,
   laih anŭn jing yom pơphan biă mă kơ ƀing ta lăng.’
43“Tui anŭn, Kâo laĭ kơ ƀing gih, Ơi Adai či mă pơđuaĭ hĭ tơlơi dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai mơ̆ng ƀing gih laih anŭn jao brơi kơ ƀing kơnung djuai pơkŏn, jing ƀing pơtơbiă rai boh čroh djơ̆ hơnơ̆ng. 44Hlơi pô lê̆ ƀơi boh pơtâo anŭn, ñu anŭn či pơčah brai hĭ yơh; samơ̆ ƀơi hlơi pô boh pơtâo anŭn lê̆ djơ̆, boh pơtâo anŭn či pơsăn hĭ ñu anŭn yơh.”
45Tơdang ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing Pharisai anŭn hơmư̆ kơ tơlơi pơhơmutu anŭn, ƀing gơñu thâo krăn Yêsu pơtô kơčrâo kơ ƀing gơñu. 46Tui anŭn, ƀing gơñu kiăng mă Yêsu yơh, samơ̆ ƀing gơñu huĭ kơ ƀing ană plei yuakơ ƀing ană plei yap kơ Yêsu jing pô pơala.