41

Giô-sép bàn mộng của Pha-ra-ôn

1 Cách hai năm sau, Pha-ra-ôn nằm chiêm bao thấy mình đứng bên bờ sông. 2 Nầy đâu dưới sông đi lên bảy con bò mập và tốt, ăn cỏ trong bưng. 3 Rồi nầy, bảy con bò khác, xấu dạng, gầy guộc, ở dưới sông đi theo lên sau, đến đứng gần các con bò trước trên bờ sông. 4 Bảy con bò xấu dạng, gầy guộc, nuốt bảy con bò mập tốt. Pha-ra-ôn bèn thức giấc.
5 Vua nằm ngủ lại, chiêm bao lần thứ nhì, thấy bảy gié lúa chắc, tốt tươi, mọc chung trên một cộng rạ. 6 Kế đó, bảy gié lúa khác lép và bị gió đông thổi háp, mọc theo bảy gié lúa kia. 7 Bảy gié lúa lép nuốt bảy gié lúa chắc. Pha-ra-ôn bèn thức giấc; và nầy, thành ra một điềm chiêm bao.
8 Sáng mai, tâm thần người bất định, truyền đòi các pháp sư và các tay bác sĩ xứ Ê-díp-tô đến, thuật lại điềm chiêm bao mình cho họ nghe; nhưng chẳng có ai bàn được điềm chiêm bao đó cho vua hết.
9 Quan tửu chánh bèn tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Bây giờ, tôi nhớ đến lỗi của tôi. 10 Ngày trước, bệ hạ nổi giận cùng quần thần, có cầm ngục quan thượng thiện và tôi nơi dinh quan thị vệ. 11 Trong lúc đó, cùng một đêm kia, chúng tôi có thấy điềm chiêm bao, chiêm bao mỗi người đều có ý nghĩa riêng rõ ràng. 12 Tại đó, cùng chung ngục, có một người Hê-bơ-rơ, còn trẻ, kẻ gia đinh của quan thị vệ; chúng tôi thuật lại cho chàng nghe điềm chiêm bao của mình; chàng bàn rõ ra cho ai mỗi chiêm bao nấy. 13 Rồi ra, công việc xảy đến y như lời chàng bàn: Bệ-hạ phục chức tôi lại, và xử treo quan kia.
14 Pha-ra-ôn bèn sai đi đòi Giô-sép; họ lập tức tha người ra khỏi ngục, cạo mặt mày cho, biểu thay đổi áo xống, rồi vào chầu Pha-ra-ôn. 15 Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Trẫm có thấy một điềm chiêm bao mà chẳng ai bàn ra. Vậy, trẫm nghe rằng khi người ta thuật điềm chiêm bao lại cho, thì ngươi bàn được. 16 Giô-sép tâu rằng: Đó chẳng phải tôi, nhưng ấy là Đức Chúa Trời đem sự bình an đáp cho bệ hạ vậy. 17 Pha-ra-ôn phán rằng: Nầy, trong điềm chiêm bao trẫm đương đứng bên bờ sông. 18 Nầy đâu bảy con bò mập và tốt dưới sông đi lên, đến ăn cỏ trong bưng. 19 Rồi bảy con bò khác xấu dạng gầy guộc đi theo lên sau; thật trẫm chẳng thấy trong xứ Ê-díp-tô nầy có bò xấu dạng như vậy bao giờ. 20 Bảy con bò xấu dạng gầy guộc đó nuốt bảy con bò mập tốt trước kia, 21 nuốt vào bụng, mà dường như không có nuốt, vì các con bò đó vẫn xấu dạng như xưa. 22 Trẫm bèn thức giấc; rồi lại thấy điềm chiêm bao khác, là bảy gié lúa chắc tốt tươi mọc chung trên một cọng rạ. 23 Kế đó, bảy gié lúa khác, khô, lép, bị gió đông thổi háp, mọc theo bảy gié lúa kia; 24 và bảy gié lúa lép đó lại nuốt bảy gié lúa chắc. Trẫm đã thuật điềm chiêm bao nầy cho các pháp sư, nhưng không ai giải nghĩa ra được.
25 Giô-sép tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Hai điềm chiêm bao của bệ hạ thấy đó đồng một nghĩa mà thôi; Đức Chúa Trời mách cho bệ hạ biết trước những việc Ngài sẽ làm. 26 Bảy con bò mập tốt đó, tức là bảy năm; bảy gié lúa chắc đó cũng là bảy năm. Ấy chỉ đồng một điềm chiêm bao vậy. 27 Bảy con bò xấu dạng gầy guộc lên theo sau bảy con bò kia, tức là bảy năm; và bảy gié lúa lép bị gió đông thổi háp đó, tức là bảy năm đói kém. 28 Ấy là điều tôi đã tâu cùng bệ hạ rồi: Đức Chúa Trời có cho bệ hạ thấy những việc Ngài sẽ làm. 29 Nầy, trong khắp xứ Ê-díp-tô sẽ có bảy năm được mùa dư dật. 30 Nhưng bảy năm đó lại liền tiếp bảy năm đói kém; dân bổn xứ đều sẽ quên sự dư dật đó, và ách đói kém sẽ làm cho toàn xứ hao mòn. 31 Và vì sự đói kém liên tiếp nầy lớn quá, nên thiên hạ chẳng còn thấy chi về sự dư dật đó nữa. 32 Nếu điềm chiêm bao đến hai lần cho bệ hạ, ấy bởi Đức Chúa Trời đã quyết định điều đó rồi, và Ngài mau mau lo làm cho thành vậy. 33 Bây giờ bệ hạ khá chọn một người thông minh trí huệ, lập người lên làm đầu trong xứ Ê-díp-tô, 34 cùng lập các ủy viên trong xứ, để góp một phần năm của số thâu vào trong bảy năm được mùa dư dật đó. 35 Họ hãy thâu góp hết thảy mùa màng trong bảy năm được mùa dư dật sẽ đến sau nầy, cùng thâu nhập lúa mì sẵn dành cho Pha-ra-ôn, dùng làm lương để dành trong các thành, và họ hãy giữ gìn lấy. 36 Các lương thực nầy phải để dành cho bảy năm đói kém sẽ đến trong xứ Ê-díp-tô, hầu cho xứ nầy khỏi bị diệt bởi sự đói kém đó.

Giô-sép được nhắc lên cao

37 Các lời nầy đẹp ý Pha-ra-ôn và quần thần. 38 Pha-ra-ôn phán cùng quần thần rằng: Chúng ta há dễ tìm một người như người nầy, có thần minh của Đức Chúa Trời được sao? 39 Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Vì Đức Chúa Trời xui cho ngươi biết mọi việc nầy, thì chẳng còn ai được thông minh trí huệ như ngươi nữa. 40 Vậy, ngươi sẽ lên cai trị nhà trẫm; hết thảy dân sự của trẫm đều sẽ vâng theo lời ngươi. Trẫm lớn hơn ngươi chỉ vì ngự ngôi vua mà thôi. 41 Pha-ra-ôn lại phán cùng Giô-sép rằng: Hãy xem! Trẫm lập ngươi cầm quyền trên cả xứ Ê-díp-tô. 42 Vua liền cởi chiếc nhẫn trong tay mình, đeo vào tay Giô-sép, truyền mặc áo vải gai mịn, và đeo vòng vàng vào cổ người; 43 rồi, truyền cho lên ngồi xe sau xe vua, có người đi trước hô rằng: Hãy quì xuống! Ấy, Giô-sép được lập lên cầm quyền cả xứ Ê-díp-tô là vậy. 44 Pha-ra-ôn lại phán cùng Giô-sép: Ta là Pha-ra-ôn, nhưng nếu chẳng có ngươi, thì trong cả xứ Ê-díp-tô không có ai giơ tay đưa chân lên được.
45 Pha-ra-ôn đặt tên Giô-sép là Xa-phơ-nát-Pha-nê-ách, đưa nàng Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, cho người làm vợ. Người thường tuần hành trong xứ Ê-díp-tô. 46 Vả, khi Giô-sép ra mắt Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, thì người đã ba mươi tuổi. Vậy, người từ tạ Pha-ra-ôn mà đi tuần khắp xứ Ê-díp-tô.
47 Trong bảy năm được mùa dư dật, đất sanh sản ra đầy dẫy. 48 Giô-sép bèn thâu góp hết thảy lương thực của bảy năm đó trong xứ Ê-díp-tô, và chứa lương thực nầy khắp các thành; trong mỗi thành, đều dành chứa hoa lợi của các ruộng ở chung quanh thành đó. 49 Vậy, Giô-sép thâu góp lúa mì rất nhiều, như cát nơi bờ biển, cho đến đỗi người ta đếm không được, vì đầy dẫy vô số.

Giô-sép sanh Ma-na-se và Ép-ra-im

50 Trước khi đến năm đói kém, thì Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, sanh cho Giô-sép hai con trai. 51 Giô-sép đặt tên đứa đầu lòng là Ma-na-se, vì nói rằng: Đức Chúa Trời đã làm cho ta quên điều cực nhọc, và cả nhà cha ta. 52 Người đặt tên đứa thứ nhì là Ép-ra-im, vì nói rằng: Đức Chúa Trời làm cho ta được hưng vượng trong xứ mà ta bị khốn khổ.

Sự đói kém khởi sự

53 Bảy năm được mùa dư dật trong xứ Ê-díp-tô bèn qua, 54 thì bảy năm đói kém khởi đến, y như lời Giô-sép đã bàn trước. Khắp các xứ khác cũng đều bị đói, nhưng trong cả xứ Ê-díp-tô lại có bánh. 55 Đoạn, cả xứ Ê-díp-tô đều bị đói, dân chúng đến kêu cầu Pha-ra-ôn, xin lương. Pha-ra-ôn phán cùng bổn dân rằng: Hãy đi đến Giô-sép, rồi làm theo lời người sẽ chỉ bảo cho. 56 Khi khắp xứ bị đói kém, thì Giô-sép mở mọi kho lúa mà bán cho dân Ê-díp-tô. 57 Xứ càng đói nhiều nữa; vả, vì khắp thế gian đều bị đói quá, nên đâu đâu cũng đổ đến Ê-díp-tô mua lúa nơi Giô-sép bán.

41

Yôsêp Pơblang Tơlơi Rơpơi Kơ Pharaoh

1Tơdang dua thŭn hơmâo rơgao laih, Pharaoh hơmâo sa tơlơi rơpơi tui anai: Ñu hlak dŏ dơ̆ng jĕ krong Nil, 2blĭp blăp hơmâo tơjuh drơi rơmô rơmŏng hiam tơbiă rai mơ̆ng krong anŭn, laih anŭn gơñu čơdơ̆ng ƀơ̆ng khul rơ̆k trang bo. 3Tơdơi kơ gơñu, hơmâo tơjuh drơi rơmô pơkŏn rơwang sat; gơñu tơbiă rai mơ̆ng krong Nil laih anŭn dŏ jĕ tơpul rơmô hlâo ƀơi ha̱ng ia; 4tơpul rơmô rơwang sat anŭn lun ƀơ̆ng hĭ tơjuh drơi rơmô rơmŏng hiam adih. Giŏng anŭn, Pharaoh ƀlư̆ mơdưh hĭ. 5Ñu lê̆ pĭt dơ̆ng hăng hơmâo tơlơi rơpơi tal dua: Tơjuh sar pơdai asar hiam, prŏng đĭ ƀơi sa phŭn pơdai. 6Tơdơi kơ gơñu, tơjuh sar pơdai pơkŏn tơbiă rai, hơbo djot gliu yuakơ hơr hăng angĭn mơ̆ng tơdron ha̱r gah ngŏ̱. 7Hơdôm sar pơdai hơbo lun ƀơ̆ng hĭ tơjuh sar pơdai asar hiam anŭn. Giŏng anŭn, Pharaoh ƀlư̆ mơdưh hĭ hăng thâo krăn ñu hlak rơpơi.
8Amăng hrơi mơguah tơlơi pơmĭn ñu rŭng răng; tui anŭn ñu brơi arăng iâu rai abih bang ƀing pơjâo laih anŭn ƀing rơgơi amăng čar Êjip. Pharaoh ră ruai khul tơlơi rơpơi ñu kơ ƀing gơñu, samơ̆ ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi pơblang brơi kơ ñu.
9Giŏng anŭn, pô khua yŏng kơčŏk pơhiăp hăng Pharaoh, “Hrơi anai kâo hơdơr glaĭ tơlơi soh kâo. 10Tơdang ih hil kơ pô khua ŏm ƀañ tơpŭng laih anŭn kơ kâo; ih krư̆ hĭ ƀing gơmơi amăng sang mơnă amăng sang pô khua kơ ƀing gak anŭn. 11Rĭm čô gơmơi hơmâo tơlơi rơpơi hrŏm amăng sa mlam laih anŭn rĭm tơlơi rơpơi hơmâo tơlơi kiăng laĭ phara. 12Hlak anŭn sa čô tơdăm Hêbrơ dŏ hrŏm hăng ƀing gơmơi pơ anŭn, jing hlŭn kơ pô khua kơ ƀing gak. Ƀing gơmơi ră ruai kơ ñu tơlơi rơpơi gơmơi laih anŭn ñu pơblang khul tơlơi rơpơi anŭn kơ ƀing gơmơi. 13Giŏng anŭn, abih bang tơlơi hơmâo truh hrup hăng khul tơlơi ñu hơmâo pơblang laih kơ ƀing gơmơi: Ih pơyom glaĭ kâo hăng yol hĭ tơkuai pô khua ŏm ƀañ tơpŭng.”
14Tui anŭn, Pharaoh brơi arăng iâu rai Yôsêp laih anŭn tañ mơtam arăng ba gơ̆ tơbiă mơ̆ng sang mơnă. Laih kơ gơ̆ kuăh blâo ka̱ng laih anŭn plih hĭ sum ao, gơ̆ nao ƀơi anăp pơtao Pharaoh yơh.
15Pharaoh laĭ kơ Yôsêp, “Kâo hơmâo sa tơlơi rơpơi laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô dưi pơblang tơlơi rơpơi anŭn kơ kâo ôh. Samơ̆ kâo hơmư̆ arăng ruai, tơdang ih hơmư̆ tơlơi rơpơi, ih dưi pơblang tơbiă ñu.”
16Yôsêp laĭ glaĭ, “Kâo pô ƀu dưi pơblang ôh, Ơ Pharaoh ăh, samơ̆ Ơi Adai či brơi kơ ih tơlơi laĭ glaĭ kơ hơget tơlơi Ñu khăp kiăng jing hiam klă kơ ih yơh.”
17Giŏng anŭn, Pharaoh ruai hăng Yôsêp, “Amăng tơlơi rơpơi, kâo hlak dŏ dơ̆ng ƀơi ha̱ng ia krong Nil, 18hlak anŭn tơjuh drơi rơmô rơmŏng hiam tơbiă mơ̆ng krong anŭn; gơñu čơdơ̆ng ƀơ̆ng ƀơi rơ̆k trang bo. 19Tơdơi kơ gơñu anŭn, hơmâo tơjuh drơi rơmô rơwang sat pơkŏn dơ̆ng tơbiă rai. Kâo ƀu ƀuh hlâo tơdơi ôh tơpul rơmô sat hrup hăng anŭn amăng lŏn čar Êjip anai. 20Tơpul rơmô rơwang lun ƀơ̆ng hĭ tơjuh drơi rơmô rơmŏng hiam hơmâo tơbiă rai laih hlâo anŭn. 21Samơ̆ laih kơ gơñu lun ƀơ̆ng laih, ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi thâo gơñu lun ƀơ̆ng laih kar hăng anŭn; drơi jan gơñu ăt sat hrup hăng drơi jan gơñu rai hlâo mơ̆n. Giŏng anŭn, kâo ƀlư̆ mơdưh hĭ yơh.
22“Amăng tơlơi rơpơi tơdơi kơ anŭn, kâo ăt ƀuh tơjuh sar pơdai asar hiam tơbiă rai mơ̆ng sa phŭn. 23Tơdơi kơ gơñu, hơmâo tơjuh sar pơdai tơbiă rai dơ̆ng, djot gliu rơwang yuakơ hơr hăng angĭn mơ̆ng tơdron ha̱r gah ngŏ̱, 24laih anŭn hơdôm jĕh pơdai rơwang lun ƀơ̆ng hĭ hơdôm jĕh pơdai asar. Kâo ră ruai laih kơ ƀing pơjâo pơ anai, samơ̆ ƀu hơmâo ôh hlơi pô amăng ƀing gơñu dưi pơblang tơlơi anai kơ kâo.”
25Giŏng anŭn, Yôsêp laĭ kơ Pharaoh, “Khul tơlơi rơpơi Pharaoh anai kơnơ̆ng jing hrup sa tơlơi kiăng laĭ đôč. Ơi Adai hơmâo pơrơđah laih kơ Pharaoh hơget tơlơi Ñu jĕ či ngă. 26Tơjuh drơi rơmô rơmŏng jing tơjuh thŭn laih anŭn tơjuh sar pơdai asar ăt jing tơjuh thŭn mơ̆n; gơñu ăt jing hrup sa tơlơi kiăng laĭ đôč mơ̆n. 27Tơjuh drơi rơmô rơwang laih anŭn sat tơbiă rai tơdơi kơ anŭn hăng tơjuh sar pơdai rơwang hơr hăng angĭn mơ̆ng tơdron ha̱r gah ngŏ̱ jing tơjuh thŭn ư̆ rơpa yơh.
28“Ñu či jing kar hăng kâo hơmâo pơblang kơ ih yơh, Ơ Pharaoh ăh; Ơi Adai hơmâo pơrơđah laih kơ ih hơget tơlơi Ñu jĕ či ngă. 29Tơjuh thŭn rơbeh rơbai rai kơ djŏp anih amăng čar Êjip, 30samơ̆ tơjuh thŭn ư̆ rơpa či rai tơdơi kơ thŭn rơbeh rơbai. Giŏng anŭn, rĭm čô či wơr bĭt hĭ yơh kơ thŭn rơbeh blai anŭn yuakơ thŭn ư̆ rơpa či pơrai hĭ lŏn čar anai. 31Tơlơi bă blai amăng lŏn čar anai rĭm čô či wơr bĭt hĭ abih yơh, yuakơ tơlơi ư̆ rơpa rai tơdơi kơ anŭn jing hyưt huĭ prŏng biă mă. 32Tơhơnal tơlơi kơ khul tơlơi rơpơi hơmâo brơi kơ Pharaoh amăng dua mơta anŭn jing Ơi Adai hơmâo pơkă laih, laih anŭn ƀu akaih ôh Ñu či ngă yơh.
33“Ră anai Ơ Pharaoh ăh, rơkâo kơ ih năng ruah mă bĕ sa čô rơgơi, thâo pơmĭn laih anŭn jao brơi bĕ kơ ñu git gai wai lăng amăng anih lŏn Êjip anai. 34Rơkâo kơ ih năng ruah mă bĕ ƀing khua mă bruă pơkŏn dơ̆ng kơ djŏp anih amăng lŏn čar Êjip kiăng kơ mă dua črăn amăng pluh kơ bơyan hơpuă amăng tơjuh thŭn rơbeh blai. 35Brơi bĕ ƀing gơñu pơƀut glaĭ abih bang gơnam ƀơ̆ng amăng thŭn rơbeh blai hlak rai, laih anŭn brơi bĕ tơlơi dưi kiăng răk pioh, gak wai abih khul pơdai anŭn amăng hơdôm plei pla pioh kơ gơnam ƀơ̆ng. 36Gơnam ƀơ̆ng anai či djru glaĭ kơ lŏn čar yơh tơdang tơjuh thŭn ư̆ rơpa či rai amăng čar Êjip; tui anŭn lŏn čar anai ƀu či răm rai ôh yua mơ̆ng tơlơi ư̆ rơpa anŭn.”

Yôsêp Jing Khua Wai Lăng Abih Bang Čar Êjip

37Hơdră anai hơmâo pơmơak kơ Pharaoh wơ̆t hăng abih bang ƀing khua moa pơ anŭn mơ̆n. 38Tui anŭn, Pharaoh tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing ta dưi hơduah hơmâo sa čô hrup hăng anai jing pô hơmâo Yang Bơngăt Ơi Adai dŏ hrŏm mơ̆n hă?”
39Giŏng anŭn, Pharaoh laĭ kơ Yôsêp, “Yuakơ Ơi Adai hơmâo pơrơđah laih abih bang tơlơi anai kơ ih, ƀu hơmâo hlơi pô ôh thâo pơmĭn hăng rơgơi hrup hăng ih. 40Kâo či jao kơ ih git gai wai lăng kơnŭk kơna kâo, abih bang ană plei kâo či tui gưt kơ khul tơlơi ih pơtă yơh. Ih kơnơ̆ng dŏ gah yŭ kơ kâo yơh yuakơ kâo jing pơtao prŏng hloh kơ ih. 41Anai nê, kâo pơhaih ih jing khua wai lăng abih bang lŏn čar Êjip.” 42Tui anŭn, Pharaoh tŏh rơbưn gru kơđŏm mơ̆ng čơđe̱ng tơngan ñu hăng čut ƀơi čơđe̱ng tơngan Yôsêp. Ñu buh ƀơi Yôsêp sa blah ao phyung ƀlĭ laih anŭn băk ƀơi tơkuai gơ̆ sa jal añŭ hăng mah. 43Ñu brơi kơ gơ̆ đĭ ƀơi rơdêh aseh jing khua tal dua ñu laih anŭn ƀing tơhan gak nao hlâo kơ gơ̆ hăng pơhiăp kraih, “Pơagaih jơlan bĕ!” Tui anŭn yơh, pơtao Pharaoh hơmâo brơi laih kơ Yôsêp jing khua wai lăng abih bang čar Êjip. 44Giŏng anŭn, Pharaoh laĭ kơ Yôsêp, “Kâo jing Pharaoh, rơngiao kơ tơlơi tŭ ư mơ̆ng ih, ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng čar Êjip anai dưi yŏng đĭ plă̱ tơngan ƀôdah tơkai ñu.” 45Pharaoh pơanăn Yôsêp sa anăn jing Zaphenat-Phaneah hăng brơi kơ gơ̆ sa čô bơnai anăn HʼAsenat, ană đah kơmơi Pôtiphera, khua ngă yang amăng sang ngă yang Ôn, jing hĭ bơnai Yôsêp. Laih anŭn Yôsêp git gai wai lăng amăng djŏp anih lŏn Êjip yơh.
46Yôsêp hlak klâopluh thŭn tơdang ñu čơdơ̆ng mă bruă kơ Pharaoh pơtao ƀing Êjip. Laih anŭn ñu tơbiă mơ̆ng sang pơtao hăng đuaĭ hyu djŏp anih amăng Êjip. 47Tơdang tơjuh thŭn rơbeh blai, anih lŏn pơtơbiă rai pơdai, añăm tăm lu biă mă. 48Yôsêp pơƀut mă abih bang gơnam ƀơ̆ng amăng tơjuh thŭn rơbeh blai amăng čar Êjip anŭn hăng răk pioh amăng khul plei. Amăng rĭm boh plei, ñu răk pioh mơ̆ng đang hơma jum dar anŭn yơh. 49Yôsêp răk pioh pơdai lu biă mă, jing lu hrup hăng čuah ia rơsĭ; pơdai lu biă mă tơl ƀu anăm yap pơkă ôh yuakơ lu hloh kơ tơlơi dưi pơkă.
50Hlâo kơ hơdôm thŭn ư̆ rơpa rai, HʼAsenat ană đah kơmơi Pôtiphera, jing khua ngă yang amăng sang ngă yang Ôn, hơmâo rai kơ Yôsêp dua čô ană đah rơkơi. 51Yôsêp laĭ, “Ơi Adai hơmâo brơi kâo wơr hĭ abih tơlơi tơnap tap kâo laih anŭn sang anŏ ama kâo.” Tui anŭn, ñu pơanăn ană kơčoa ñu Manasseh. 52Ñu ăt laĭ, “Anai jing yuakơ Ơi Adai hơmâo brơi laih kơ kâo hơmâo ană bă amăng anih lŏn tơlơi tơnap tap kâo.” Tui anŭn, ñu pơanăn ană ñu tal dua anai Ephraim.
53Hơdôm thŭn rơbeh blai amăng čar Êjip abih laih, 54laih anŭn tơjuh thŭn ư̆ rơpa čơdơ̆ng truh, kar hăng Yôsêp hơmâo laĭ laih. Hơmâo tơlơi ư̆ rơpa amăng abih bang anih lŏn čar pơkŏn mơ̆n, samơ̆ hơmâo gơnam ƀơ̆ng amăng djŏp anih lŏn Êjip. 55Tơdang abih bang ană plei Êjip čơdơ̆ng tơua laih, ƀing gơñu ur kwưh kơ Pharaoh kơ gơnam ƀơ̆ng. Tui anŭn, pơtao Pharaoh laĭ kơ abih bang ană plei Êjip, “Nao bĕ kơ Yôsêp laih anŭn ngă bĕ tui hăng tơlơi ñu pơtă.” 56Tơdang tơlơi ư̆ rơpa truh djŏp anih amăng čar Êjip, Yôsêp pŏk abih bang pưk tông hơmâo răk pioh khul pơdai hăng sĭ khul pơdai anŭn kơ ană plei Êjip, yuakơ hơmâo tơlơi ư̆ rơpa prŏng amăng lŏn čar anŭn. 57Laih anŭn abih bang mơnuih mơ̆ng abih lŏn čar pơkŏn rai blơi pơdai mơ̆ng Yôsêp, yuakơ tơlơi ư̆ rơpa prŏng biă mă amăng djŏp anih.