1

Đời Sa-lô-môn trị vì

(Từ đoạn 1 đến đoạn 11)

Buổi già của Đa-vít. – A-đô-ni-gia muốn làm vua. – Đa-vít chọn Sa-lô-môn nối ngôi mình

1 Vua Đa-vít đã già, tuổi cao; và mặc dầu người ta đắp áo cho người, cũng không thể ấm được. 2 Các tôi tớ người nói với người rằng: Xin tìm cho vua chúa tôi một gái trẻ đồng trinh, để hầu hạ vua và săn sóc vua. Nàng sẽ nằm trong lòng vua, thì vua chúa tôi có thể ấm được. 3 Vậy người ta tìm trong khắp địa phận Y-sơ-ra-ên một người gái trẻ đẹp, và gặp được A-bi-sác, người Su-nem, dẫn nàng đến cùng vua. 4 Người gái trẻ nầy rất là lịch sự. Nàng săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua không thân cận nàng.
5 Vả, A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, tự tôn mà rằng: Ta sẽ làm vua. Người sắm xe và quân kị, cùng năm mươi người chạy trước mặt mình. 6 Cha người chẳng hề phiền lòng người mà hỏi rằng: Cớ sao mầy làm như vậy? --- Vả lại, A-đô-ni-gia rất đẹp, sanh ra kế sau Áp-sa-lôm. 7 Người bàn tính với Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia và với thầy tế lễ A-bia-tha; hai người theo phe A-đô-ni-gia và giúp đỡ người. 8 Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc và Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, Na-than, thầy tiên tri, Si-mê-i, Rê-i, và các dõng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia. 9 A-đô-ni-gia dâng những chiên, bò, và bò con mập bên hòn đá Xô-hê-lết, ở cạnh giếng Ên-Rô-ghên; rồi mời anh em mình, là các con trai của vua, và hết thảy những người Giu-đa phục sự vua. 10 Nhưng người chẳng mời Na-than, là đấng tiên tri, Bê-na-gia, các dõng sĩ, cùng Sa-lô-môn, em mình.
11 Bấy giờ, Na-than nói với Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn, mà rằng: Bà há chẳng hay rằng A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã làm vua, mà Đa-vít, chúa ta, chẳng hay biết sao? 12 Thế thì, bây giờ, hãy nghe; tôi sẽ cho bà một kế để bà cứu mạng sống mình và mạng sống của Sa-lô-môn. 13 Hãy đi ra mắt vua Đa-vít, và tâu rằng: Ôi vua, chúa tôi! Chúa há chẳng có thề cùng con đòi của chúa rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn ắt sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta, hay sao? Vậy, cớ sao A-đô-ni-gia trị vì? 14 Trong lúc bà tâu với vua như vậy, thì chính tôi cũng sẽ đi vào sau, làm cho quả quyết các lời của bà.
15 Vậy, Bát-Sê-ba đi đến cùng vua, tại trong phòng. Vua đã già lắm có A-bi-sác, người Su-nem, hầu hạ người. 16 Bát-Sê-ba cúi mình xuống và lạy trước mặt vua. Vua hỏi rằng: Ngươi muốn chi? 17 Bà tâu rằng: Chúa tôi ôi! chúa đã nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúa thề cùng con đòi của chúa rằng: Sa-lô-môn con trai ngươi sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta. 18 Ôi vua chúa tôi! Nhưng bây giờ, A-đô-ni-gia làm vua, mà chúa chẳng biết chi đến. 19 Người lại có giết bò đực, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cũng có mời hết thảy các vương tử với A-bia-tha, thầy tế lễ, và Giô-áp, quan tổng binh; nhưng người không mời Sa-lô-môn, kẻ tôi tớ vua. 20 Ôi vua chúa tôi! Cả Y-sơ-ra-ên đều xây mắt về vua, đợi vua cho họ biết ai là người kế vua phải ngồi trên ngai của vua, là chúa tôi. 21 Chẳng vậy, khi vua chúa tôi an giấc với các tổ phụ, thì tôi và con trai tôi là Sa-lô-môn sẽ bị xử như kẻ có tội.
22 Bà đương còn tâu với vua, thì tiên tri Na-than đến. 23 Người ta đến thưa cùng vua rằng: Nầy có tiên tri Na-than. Na-than ra mắt vua, sấp mình xuống trước mặt người mà lạy, 24 và nói rằng: Ôi vua chúa tôi! Có phải vua đã phán rằng: A-đô-ni-gia sẽ trị vì kế ta và ngồi trên ngai ta, chăng? 25 Thật vậy, ngày nay, người đã đi xuống giết bò, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cùng mời hết thảy các vương tử, quan tướng, và thầy tế lễ A-bia-tha; kìa, họ ăn uống tại trước mặt người, và la lên rằng: A-đô-ni-gia vạn tuế! 26 Còn tôi là kẻ tôi tớ vua, thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, và Sa-lô-môn, tôi tớ vua, thì người chẳng có mời. 27 Việc nầy há phải bởi vua chúa tôi mà ra? Và lại vua không cho các tôi tớ vua biết ai là người kế vua, phải ngồi trên ngai của vua chúa tôi.
28 Vua Đa-vít đáp rằng: Hãy gọi Bát-Sê-ba cho ta. Bà vào và đứng trước mặt vua. 29 Đa-vít bèn thề mà rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã giải cứu mạng sống ta khỏi các hoạn nạn! 30 Ta nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà thề cùng ngươi rằng: Quả hẳn Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ trị vì kế ta, nó sẽ ngồi trên ngai thế cho ta; thì ngày nay ta sẽ làm hoàn thành điều đó. 31 Bát-Sê-ba cúi mặt xuống đất và lạy trước mặt vua, mà tâu rằng: Nguyện vua Đa-vít, chúa tôi, vạn tuế!
32 Đoạn, vua Đa-vít nói: Hãy gọi cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa. Mấy người ấy bèn ra mắt vua. 33 Rồi vua nói với họ rằng: Hãy đem các đầy tớ của chủ các ngươi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, lên cỡi con la của ta, rồi đưa nó đến Ghi-hôn. 34 Ở đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than phải xức dầu cho người làm vua Y-sơ-ra-ên. Đoạn, các ngươi hãy thổi kèn lên mà hô rằng: 35 Vua Sa-lô-môn vạn tuế! Các ngươi sẽ theo sau người trở lên, người sẽ đến ngồi trên ngai ta, và trị vì thế cho ta. Ấy là người mà ta đã lập làm vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
36 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa tâu cùng vua rằng: A-men! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua chúa tôi, cũng phán định như vậy. 37 Đức Giê-hô-va đã ở cùng vua chúa tôi thể nào, nguyện Ngài cũng ở cùng Sa-lô-môn thể ấy, và khiến ngôi người còn cao trọng hơn ngôi của vua Đa-vít, là chúa tôi! 38 Đoạn, thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít, đều đi xuống, đỡ Sa-lô-môn lên cỡi con la của vua Đa-vít, rồi đưa người đến Ghi-hôn. 39 Thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng dầu trong Đền tạm, và xức cho Sa-lô-môn. Người ta thổi kèn, cả dân sự đều hô lên rằng: Vua Sa-lô-môn vạn tuế! 40 Chúng đều theo người đi lên, thổi sáo, và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất rúng động bởi tiếng la của họ.
41 A-đô-ni-gia và hết thảy kẻ dự tiệc với mình đều nghe tiếng nầy khi vừa ăn xong. Lúc Giô-áp nghe tiếng kèn, thì nói: Sao trong thành có tiếng xôn xao ấy? 42 Người hãy còn nói, kìa Giô-na-than, con trai thầy tế lễ A-bia-tha, chợt đến. A-đô-ni-gia nói với người rằng: Hãy vào, vì ngươi là một tay dõng sĩ, chắc ngươi đem những tin lành. 43 Nhưng Giô-na-than đáp với A-đô-ni-gia rằng: Thật trái hẳn. Vua Đa-vít, chúa chúng ta, đã lập Sa-lô-môn làm vua. 44 Vua có sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít cùng người Phê-lê-thít đi theo người, và họ đã đỡ người lên cỡi con la của vua. 45 Đoạn, tại Ghi-hôn, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho người làm vua; họ đã từ đó trở lên cách reo mừng, và cả thành đều vang động. Đó là tiếng xôn xao mà các ông đã nghe. 46 Lại, Sa-lô-môn đã ngồi trên ngôi nước; 47 các tôi tớ của vua đến chúc phước cho vua Đa-vít, chúa chúng ta, mà tâu rằng: Nguyện Đức Chúa Trời của vua làm cho danh Sa-lô-môn tôn vinh hơn danh của vua, và khiến cho ngôi người cao trọng hơn ngôi của vua! Rồi vua cúi lạy nơi giường mình; 48 và có nói như vầy: Đáng khen ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài có ban một người để ngồi trên ngôi của tôi mà mắt tôi xem thấy.
49 Bấy giờ, hết thảy các người dự tiệc với A-đô-ni-gia đều bắt sợ hãi, đứng dậy, ai đi đường nấy. 50 A-đô-ni-gia cũng sợ Sa-lô-môn, đứng dậy, chạy nắm các sừng bàn thờ. 51 Có người đến thuật cho Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ, mà nói rằng: Hôm nay, vua Sa-lô-môn hãy thề với tôi rằng vua sẽ không giết đầy tớ người bằng gươm. 52 Sa-lô-môn đáp rằng: Nếu người ăn ở ra người tử tế, thì chẳng một sợi tóc nào của người sẽ rụng xuống đất; bằng có thấy sự ác nơi người, ắt người sẽ chết. 53 Vua Sa-lô-môn sai kẻ đem người xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia đến sấp mình xuống trước mặt Sa-lô-môn; Sa-lô-môn bèn nói với người rằng: Hãy trở về nhà ngươi.

1

Pơtao Dawid Tha Biă Mă

1Tơdang pơtao Dawid tha biă mă laih, ñu ƀu hơmâo djŏp tơlơi pơđao ôh wơ̆t tơdah ƀing ding kơna ñu mă lu abăn sŏm brơi kơ gơ̆, samơ̆ gơ̆ ăt dŏ rơŏt mơ̆n. 2Tui anŭn, ƀing khua moa ñu laĭ kơ Dawid tui anai, “Ơ pơtao, brơi bĕ kơ ƀing gơmơi hơduah sa čô dra hơči̱h kơ ih kiăng kơ răk wai ih. Ñu dưi đih jĕ ih kiăng kơ ih dưi hơmâo djŏp tơlơi đaŏ tơlơi pơđao yơh, Ơ pơtao khua gơmơi ăh.”
3Giŏng anŭn, ƀing gơñu hơduah amăng djŏp Israel kơ sa čô dra hiam bơnai laih anŭn ƀing gơñu hơduah ƀuh HʼAbisag, jing mơnuih mơ̆ng plei Sunêm, tui anŭn ƀing gơñu ba rai gơ̆ kơ pơtao yơh. 4Dra anai hiam bơnai biă mă; ñu răk wai pơtao laih anŭn djru kơ pơtao, samơ̆ pơtao ƀu đih hrŏm hăng gơ̆ ôh.

Adôniyah, Ană Pơtao Dawid, Pơdơ̆ng Đĭ Ñu Pô Jing Pơtao

5Hlak anŭn, Adôniyah, amĭ ñu jing HʼHagit, pơang đĭ ñu pô laih anŭn laĭ tui anai, “Kâo či jing pơtao yơh.” Tui anŭn, ñu prap pre khul rơdêh aseh hrŏm hăng khul aseh laih anŭn rơmapluh čô đuaĭ nao gah anăp kơ ñu. 6Adôniyah tơkeng rai tŏ tui ayŏng ñu Absalôm laih anŭn ñu ăt hiam rơkơi biă mă, samơ̆ ñu pơgao pơang yuakơ amăng abih tơlơi hơdip ñu, ama ñu pơtao Dawid ƀu pơkhư̆ pơtô ñu ôh laih anŭn kŏn tơña lơi kơ ñu tui anai, “Yua hơget ih ngă tui anŭn lĕ?”
7Yuakơ Adôniyah kiăng kơ jing hĭ pơtao, ñu pơbưp ră ruai hăng Yôab ană đah rơkơi HʼZeruyah, laih anŭn hăng Abiathar khua ngă yang prŏng hloh, tui anŭn ƀing gơñu tŭ ư gŭm djru Adôniyah yơh. 8Samơ̆ Zadôk khua ngă yang prŏng hloh, Benayah ană đah rơkơi Yehôyada, pô pơala Nathan, Simei, Rei laih anŭn ƀing răng pơgang Dawid ƀu pơgop hrŏm hăng Adôniyah ôh.
9Giŏng anŭn, Adôniyah trŭn nao ngă yang hăng khul triu, rơmô laih anŭn ană rơmô rơmŏng, jing hlô mơnơ̆ng rong pioh kơ tơlơi ƀơ̆ng huă, ƀơi Boh Pơtâo Zôhêlet jĕ anih ia bluh In-Rôgêl. Ñu jak iâu rai abih bang ƀing adơi ñu jing ƀing ană đah rơkơi pơtao wơ̆t hăng abih bang ƀing khua moa kơdrưh kơang mơ̆ng kơnung djuai Yudah. 10Samơ̆ ñu ƀu jak iâu ôh pô pơala Nathan, Benayah, ƀing răng pơgang pơtao Dawid ƀôdah adơi ñu Solomôn jing ană HʼBatseba.

Pô Pơala Nathan Hăng HʼBatseba Nao Bưp Pơtao Dawid

11Tơdang pô pơala Nathan hơmư̆ kơ tơlơi anŭn, ñu nao tơña HʼBatseba jing amĭ Solomôn tui anai, “Ih hơmâo hơmư̆ mơ̆ Adôniyah, jing ană đah rơkơi HʼHagit, hơmâo pơdơ̆ng hĭ laih ñu pô jing pơtao? Ñu ngă laih tơlơi anŭn samơ̆ khua ta Dawid ƀu thâo ôh. 12Hơnŭn yơh ră anai, brơi bĕ kâo djru pơmĭn kơ ih hơdôm tơlơi ih khŏm ngă kiăng kơ pơklaih hĭ tơlơi hơdip ih pô wơ̆t hăng tơlơi hơdip ană đah rơkơi ih Solomôn mơ̆n. 13Nao bĕ pơ pơtao Dawid laih anŭn laĭ kơ ñu tui anai, ‘Ơ pơtao khua kâo ăh, ih ƀu ƀuăn rơ̆ng hăng kâo ding kơna ih anai tui anai ôh hă kơ tơlơi Solomôn ană đah rơkơi kâo yơh či jing pơtao tơdơi kơ ih laih anŭn ñu či dŏ ƀơi grê pơtao ih? Tui anŭn, yua hơget ră anai Adôniyah hơmâo jing pơtao laih lĕ?’ ”
 Giŏng anŭn, Nathan pơhiăp dơ̆ng hăng HʼBatseba tui anai,
14“Tơdang ih ăt dŏ pơ anih anŭn hlak pơhiăp hăng pơtao, kâo či mŭt nao laih anŭn pơkơjăp hơget tơlơi ih hơmâo pơhiăp anŭn yơh.”
15Tui anŭn, HʼBatseba nao bưp pơtao amăng anih dŏ pơtao. Hlak anŭn, HʼAbisag mơnuih Sunêm hlak djru kơ pơtao Dawid yuakơ gơ̆ tha biă mă laih. 16HʼBatseba bon kơkuh tŏ tơŭt ƀơi anăp pơtao. Pơtao tơña kơ ñu tui anai, “Hơget tơlơi kâo dưi djru kơ ih lĕ?”
17HʼBatseba laĭ kơ pơtao tui anai, “Ơ khua kâo hơi, amăng anăn Yahweh Ơi Adai ih, ih pô hơmâo ƀuăn laih hăng kâo, jing ding kơna ih anai tui anai, ‘Ană đah rơkơi ih Solomôn yơh či jing pơtao tŏ tui kâo laih anŭn ñu yơh či dŏ ƀơi grê pơtao kâo.’ 18Samơ̆ kơđai glaĭ, ră anai Adôniyah hơmâo jing pơtao laih, laih anŭn ih, Ơ pơtao khua kâo ăh, aka ƀu thâo ôh kơ tơlơi anŭn. 19Ñu hơmâo ngă yang laih hăng lu khul triu, rơmô, hăng ană rơmô rơmŏng, laih anŭn hơmâo jak iâu laih abih bang ƀing ană đah rơkơi ih nao pơ tơlơi ƀơ̆ng huă, wơ̆t hăng Abiathar khua ngă yang prŏng hloh hăng khua ƀing ling tơhan ih Yôab mơ̆n, samơ̆ ñu ƀu jak iâu ôh ding kơna tŏng ten ih Solomôn anai.
20“Ơ pơtao khua kâo ăh, mơta abih bang ƀing Israel dŏ lăng ƀơi ih yơh kiăng kơ thâo krăn hlơi pô či dŏ ƀơi grê pơtao ih kiăng kơ git gai tơdơi kơ ih. 21Rơngiao kơ tơlơi anŭn, tơdang ih, Ơ pơtao khua kâo ăh, hơmâo tơĭ pran laih, kâo hăng ană đah rơkơi kâo Solomôn, ƀing Adôniyah či ngă sat tañ kơ ƀing gơmơi kar hăng ƀing hơmâo pơkơdơ̆ng glaĭ laih hăng ih yơh.”
22Tơdang ñu ăt hlak dŏ pơhiăp hăng pơtao, pô pơala Nathan mŭt rai. 23Laih anŭn ƀing ding kơna pơtao laĭ hăng pơtao tui anai, “Pô pơala Nathan pơ anai.”
 Giŏng anŭn, pô pơala anŭn nao pơ anăp pơtao laih anŭn bon kơkuh hăng ƀô̆ mơta ñu sŏ̱ lŏn yơh,
24laih anŭn ñu laĭ tui anai, “Ơ pơtao khua kâo ăh, ih hơmâo pơhaih laih hă, Adôniyah či jing pơtao tơdơi kơ ih, laih anŭn ñu či dŏ ƀơi grê pơtao ih? 25Hrơi anai ñu hơmâo trŭn nao hăng ngă yang laih hăng lu khul rơmô, ană rơmô rơmŏng laih anŭn triu. Ñu hơmâo jak iâu laih abih bang ƀing ană đah rơkơi pơtao, ƀing khua git gai ling tơhan laih anŭn Abiathar khua ngă yang prŏng hloh mơ̆n. Ră anai ƀing gơñu hlak ƀơ̆ng huă hăng Adôniyah laih anŭn laĭ, ‘Kwưh rơkâo kơ pơtao Adôniyah hơdip sui!’ 26Samơ̆ kâo jing ding kơna ih, Zadôk khua ngă yang prŏng hloh, Benayah jing ană đah rơkơi Yehôyada laih anŭn adơi ñu, jing ding kơna ih Solomôn, ñu ƀu jak iâu ôh. 27Ơ pơtao khua kâo ăh, djơ̆ mơ̆ anŭn yơh jing tơlơi ih hơmâo ngă laih hăng ƀu laĭ pơthâo ôh kơ ƀing gơmơi, jing ƀing ding kơna ih anai, thâo krăn kơ hlơi pô či jing pơtao tơdơi kơ ih?”

Dawid Brơi Kơ Ană Ñu Solomôn Jing Pơtao

28Giŏng anŭn, pơtao Dawid laĭ tui anai, “Iâu rai HʼBatseba bĕ.” Tui anŭn, gơ̆ mŭt rai pơ anih anŭn laih anŭn dŏ dơ̆ng ƀơi anăp pơtao yơh. 29Giŏng anŭn, pơtao ƀuăn rơ̆ng hăng gơ̆ tui anai, “Yuakơ Yahweh jing Pô hơmâo pơklaih hĭ laih kâo mơ̆ng rĭm tơlơi rŭng răng, jing Pô hơdip hlŏng lar, kâo ƀuăn amăng Ñu. 30sĭt amăng hrơi anai yơh kâo či yap hơdôm tơlơi kâo hơmâo ƀuăn rơ̆ng laih hăng ih amăng Yahweh jing Ơi Adai ƀing Israel tui anai: Solomôn, ană đah rơkơi ih yơh, či jing pơtao tơdơi kơ kâo laih anŭn ñu yơh či dŏ ƀơi grê pơtao kâo kiăng kơ pơala brơi kơ kâo.”
31Giŏng anŭn, HʼBatseba bon kơkuh hăng ƀô̆ mơta ñu sŏ̱ lŏn, tŏ tơŭt ƀơi anăp pơtao laih anŭn laĭ tui anai, “Kwưh kiăng kơ khua kâo pơtao Dawid hơdip hlŏng lar!”
32Pơtao Dawid laĭ hăng ƀing ding kơna ñu tui anai, “Iâu rai bĕ Zadôk khua ngă yang prŏng hloh, pô pơala Nathan laih anŭn Benayah jing ană đah rơkơi Yehôyada.” Tơdang ƀing gơñu rai ƀơi anăp pơtao, 33ñu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Iâu bĕ ƀing ding kơna khua gih, jing ƀing răng pơgang kâo, nao hrŏm hăng ƀing gih laih anŭn brơi bĕ Solomôn, ană đah rơkơi kâo anai, đĭ ƀơi aseh glưn kâo pô, giŏng anŭn ba bĕ ñu nao pơ anih ia bluh Gihôn. 34Pơ anih anŭn yơh, brơi bĕ Zadôk khua ngă yang prŏng hloh laih anŭn pô pơala Nathan trôč ia jâo kơ ñu jing pơtao kơ ƀing Israel. Ayŭp bĕ tơdiăp laih anŭn ur kraih tui anai, ‘Kwưh kiăng pơtao Solomôn hơdip sui!’ 35Giŏng anŭn, ƀing gih či đuaĭ tui hăng ñu laih anŭn ñu či nao dŏ ƀơi grê pơtao kâo kiăng kơ git gai wai lăng pơala kơ kâo. Kâo hơmâo ruah mă laih ñu wai lăng abih bang ƀing Israel laih anŭn ƀing Yudah.”
36Benayah, ană đah rơkơi Yehôyada laĭ glaĭ kơ pơtao tui anai, “Ƀing gơmơi či ngă tui anŭn yơh! Ơ pơtao khua kâo ăh, rơkâo kơ Yahweh Ơi Adai ih pơjing hĭ bĕ tui hăng anŭn. 37Kar hăng Yahweh dŏ laih hăng ih pơtao khua kâo ăh, tui anŭn rơkâo kơ Ñu dŏ hăng Solomôn kiăng pơjing kơ tơlơi git gai wai lăng ñu đĭ kơyar hloh kơ tơlơi git gai wai lăng pơtao kâo Dawid mơ̆n!”
38Tui anŭn, Zadôk khua ngă yang prŏng hloh, pô pơala Nathan, Benayah ană đah rơkơi Yehôyada, hrŏm hăng ƀing Keret laih anŭn ƀing Pelet, jing ƀing răng pơgang Dawid, trŭn nao, brơi kơ Solomôn đĭ ƀơi aseh glưn Dawid laih anŭn ba ñu nao pơ anih ia bluh Gihôn yơh. 39Khua ngă yang Zadôk mă sa ƀĕ tơki ia jâo mơ̆ng sang khăn rơgoh hiam laih anŭn trôč ƀơi Solomôn. Giŏng anŭn, ƀing gơñu ayŭp đĭ khul tơdiăp laih anŭn abih bang mơnuih ur dreo tui anai, “Kwưh kiăng kơ pơtao Solomôn hơdip sui!” 40Giŏng anŭn, abih bang ƀing ană plei đĭ glaĭ pơ plei Yerusalaim đuaĭ tui gah rŏng pơtao Solomôn, ayŭp khul đing klơt laih anŭn hơ̆k mơak bă blai tơl lŏn pơpư̆ hăng dơnai ur dreo yơh.

Hơdră Jơlan Adôniyah Ƀu Jing Ôh

41Adôniyah laih anŭn abih bang ƀing tuai hrŏm hăng ñu hơmư̆ kơ tơlơi anŭn tơdang ƀing gơñu jĕ pơgiŏng hĭ laih tơlơi ƀơ̆ng huă gơñu. Tơdang Yôab hơmư̆ dơnai tơdiăp anŭn, ñu tơña tui anai, “Hơget tơlơi kiăng laĭ kơ abih bang dơnai ngañ bañ amăng plei prŏng anŭn lĕ?” 42Tơdang Yôab hlak pơhiăp, Yônathan ană đah rơkơi khua ngă yang Abiathar truh. Adôniyah laĭ tui anai, “Mŭt rai bĕ. Sĭt sa čô yom pơphan hrup hăng ih anai ba rai tơlơi pơthâo hiam yơh.”
43Yônathan laĭ glaĭ tui anai, “Ƀu djơ̆ ôh! Pơtao ta Dawid hơmâo jao brơi laih kơ Solomôn jing pơtao. 44Pơtao hơmâo pơkiaŏ laih hrŏm hăng ñu Zadôk khua ngă yang prŏng hloh, pô pơala Nathan, Benayah ană đah rơkơi Yehôyada, hrŏm hăng ƀing Keret hăng ƀing Pelet laih anŭn ƀing gơñu brơi Solomôn đĭ ƀơi aseh glưn pơtao. 45Giŏng anŭn, Zadôk laih anŭn Nathan hơmâo trôč laih ia jâo ƀơi ñu jing pơtao ƀơi anih ia bluh Gihôn. Čơdơ̆ng mơ̆ng anih anŭn yơh, ƀing gơñu hơmâo đĭ nao laih hơ̆k mơak, tui anŭn amăng plei hơmâo tơlơi ngañ bañ anŭn. Anŭn yơh jing tơlơi ngañ ih hơmư̆ laih. 46Hloh kơ anŭn dơ̆ng, Solomôn hơmâo dŏ be̱r git gai laih ƀơi grê pơtao ama ih. 47Ƀing khua moa ăt nao laih mơ̆n kiăng kơ hơơč mơak kơ pơtao Dawid khua ta tui anai, ‘Rơkâo kơ Ơi Adai pơjing brơi anăn Solomôn jing hing ang hloh kơ anăn ih laih anŭn tơlơi git gai wai lăng ñu đĭ kơyar hloh kơ tơlơi git gai wai lăng ih mơ̆n!’ Giŏng anŭn, pơtao Dawid bon kơkuh pơpŭ kơ Yahweh ƀơi sưng pĭt ñu 48hăng laĭ tui anai, ‘Bơni hơơč kơ Yahweh jing Ơi Adai ƀing Israel, jing Pô hơmâo brơi laih mơta kâo dưi ƀuh pô tŏ tui ƀơi grê pơtao kâo hrơi anai.’ ”
49Ƀơi mông anŭn mơtam, abih bang ƀing tuai hrŏm hăng Adôniyah rŭng răng hăng čơlah đuaĭ hĭ yơh. 50Samơ̆ yuakơ Adôniyah huĭ kơ Solomôn, tui anŭn ñu đuaĭ nao pơ sang khăn rơgoh hiam hăng djă̱ kơ̆ng ƀơi tơki kơnưl ngă yang kiăng kơ Solomôn ƀu pơdjai hĭ ñu ôh. 51Giŏng anŭn, Solomôn hơmư̆ arăng ruai pơthâo tui anai, “Adôniyah huĭ kơ pơtao Solomôn laih anŭn ñu hlak djă̱ kơ̆ng ƀơi tơki kơnưl ngă yang. Ñu rơkâo tui anai, ‘Brơi bĕ pơtao Solomôn ƀuăn rơ̆ng hăng kâo, ñu ƀu či tuh drah kâo jing ding kơna ñu anai ôh.’ ”
52Solomôn laĭ glaĭ tui anai, “Tơdah ñu pơrơđah ñu pô jing sa čô tŏng ten hăng kâo, sĭt yơh ƀu hơmâo sa ară ƀŭk ƀơi akŏ ñu či lê̆ trŭn ƀơi lŏn ôh, samơ̆ tơdah ñu ngă hơget tơlơi sat ƀai, sĭt ñu či djai yơh.” 53Giŏng anŭn, pơtao Solomôn pơkiaŏ nao ƀing mơnuih kiăng ba rai Adôniyah mơ̆ng kơnưl anŭn.
 Adôniyah rai bon kơkuh hăng tŏ tơŭt ƀơi anăp pơtao Solomôn laih anŭn Solomôn laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Glaĭ pơ sang ih bĕ.”