23

Giô-si-a phá hủy sự thờ hình tượng

1 Vua bèn sai người nhóm hiệp hết thảy những trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 2 Đoạn, vua đi lên đền thờ Đức Giê-hô-va, có hết thảy người Giu-đa, cả dân cư Giê-ru-sa-lem, những thầy tế lễ, đấng tiên tri, cùng cả dân sự, vô luận nhỏ lớn, đều đi theo người. Người đọc cho chúng nghe các lời của sách giao ước, mà người ta đã tìm được trong đền thờ của Đức Giê-hô-va. 3 Vua đứng trên tòa, lập giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa đi theo Đức Giê-hô-va, hết lòng hết ý gìn giữ những điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, và làm hoàn thành lời giao ước đã chép trong sách nầy. Cả dân sự đều ưng lời giao ước ấy.
4 Vua bèn truyền lịnh cho thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia, cho mấy thầy phó tế, và các người giữ cửa đền thờ, cất khỏi đền thờ của Đức Giê-hô-va hết thảy những khí giới người ta làm đặng cúng thờ Ba-anh, Át-tạt-tê, và cả cơ binh trên trời. Người bảo thiêu các vật đó ngoài Giê-ru-sa-lem trong đồng ruộng Xết-rôn, rồi đem tro nó đến Bê-tên. 5 Người cũng đuổi những thầy cả của các tà thần mà những vua Giu-đa đã lập, đặng xông hương trên các nơi cao trong những thành Giu-đa và tại các nơi chung quanh Giê-ru-sa-lem; cũng đuổi đi những thầy cả dâng hương cho Ba-anh, cho mặt trời, mặt trăng, huỳnh đạo, và cả cơ binh trên trời. 6 Người cất hình tượng Át-tạt-tê khỏi đền thờ của Đức Giê-hô-va, đem nó ra ngoài Giê-ru-sa-lem, đến khe Xết-rôn, thiêu đốt nó tại đó và nghiền ra tro, rồi rải tro ấy trên mồ của thường dân. 7 Người lại phá những phòng của bợm vĩ gian ở trong đền thờ của Đức Giê-hô-va, là nơi đó người nữ dệt những trại cho Át-tạt-tê.
8 Người cũng đòi đến hết thảy những thầy tế lễ ở các thành Giu-đa, làm ô uế những nơi cao mà chúng nó có xông hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e-Sê-ba; lại phá những bàn thờ lập tại cửa thành, tức tại cửa Giô-suê, quan cai thành, ở về phía bên tả, khi vào cửa thành. 9 Song, những người đã làm thầy tế lễ các nơi cao, thì chẳng được lên đến bàn thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem; song họ ăn bánh không men với anh em mình. 10 Người cũng làm ô uế Tô-phết tại trong trũng con cái Hi-nôm, hầu cho từ rày về sau, không ai được đưa con trai hay là con gái mình qua lửa cho Mo-lóc. 11 Người trừ bỏ những con ngựa các vua Giu-đa dâng cho mặt trời, ở nơi cửa vào đền Đức Giê-hô-va, tại nơi công đường của quan hoạn Nê-than-Mê-léc, trong hành lang của đền thờ; còn những xe của mặt trời, thì người thiêu đốt.
12 Vua Giô-si-a cũng phá những bàn thờ mà các vua Giu-đa đã cất trên nóc nhà lầu của vua A-cha; lại những bàn thờ mà Ma-na-se có dựng lên trong hai hành lang của đền thờ Đức Giê-hô-va, thì người đập bể, cất đem khỏi chỗ, và rải bụi nát nó trong khe Xết-rôn. 13 Vua cũng làm ô uế những nơi cao ở tại trước Giê-ru-sa-lem, bên phía hữu núi Tà tịch, là những nơi cao mà Sa-lô-môn, vua Y-sơ-ra-ên, đã cất lên để cúng thờ Át-tạt-tê, thần tượng quái gở của dân Si-đôn, Kê-mốt, thần tượng quái gở của dân Mô-áp, và Minh-côm, thần tượng gớm ghiếc của dân Am-môn. 14 Người bẻ gãy các trụ thờ, đánh đổ các hình tượng Át-tạt-tê, và chất đầy hài cốt tại chỗ nó đã đứng. 15 Lại, người phá bàn thờ tại Bê-tên, và nơi cao mà Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã lập, tức là người đó gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội; người phá bàn thờ ấy, thiêu đốt nơi cao, và cán nghiền thành ra tro bụi; cũng thiêu đốt tượng Át-tạt-tê.
16 Giô-si-a xây lại chợt thấy những mồ mả ở trên núi; người bèn sai lấy hài cốt ở trong những mồ mả ấy, rồi thiêu nó trên bàn thờ, làm cho bàn thờ bị ô uế, y như lời của Đức Giê-hô-va, mà người của Đức Chúa Trời đã báo cáo trước. 17 Đoạn, vua hỏi rằng: Bia ta thấy đó là chi? Các người thành ấy đáp rằng: Ấy là mồ mả của người Đức Chúa Trời ở Giu-đa, đến báo cáo trước về những việc mà vua đã làm cho bàn thờ tại Bê-tên. 18 Người tiếp: Hãy để hài cốt ấy bình an, chớ ai dời đi. Vậy, chúng chẳng dời hài cốt của người, cùng hài cốt của đấng tiên tri ở Sa-ma-ri mà ra.
19 Giô-si-a cũng dỡ hết thảy chùa miễu của các nơi cao ở tại trong thành Sa-ma-ri, mà các vua Y-sơ-ra-ên đã lập đặng chọc giận Đức Giê-hô-va, phá hủy các nhà đó như đã làm trong Bê-tên. 20 Người giết tại trên bàn thờ những thầy cả của các nơi cao, và thiêu hài cốt ở trên. Đoạn, người trở về Giê-ru-sa-lem.

Giữ lễ Vượt qua

21 Vua bèn truyền lịnh cho cả dân sự rằng: Hãy giữ lễ Vượt qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, tùy theo các lời đã chép trong sách giao ước. 22 Trong lúc các quan xét đã xét đoán Y-sơ-ra-ên, hoặc trong đời các vua Y-sơ-ra-ên và vua Giu-đa, thật chẳng hề có giữ một lễ Vượt qua nào 23 giống như lễ Vượt qua giữ cho Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, nhằm năm thứ mười tám đời vua Giô-si-a.
24 Giô-si-a cũng trừ diệt những đồng cốt và thầy bói, những thê-ra-phim, và hình tượng, cùng hết thảy sự gớm ghiếc thấy trong xứ Giu-đa và tại Giê-ru-sa-lem, đặng làm theo các lời luật pháp đã chép trong sách mà thầy tế lễ Hinh-kia đã tìm đặng trong đền thờ của Đức Giê-hô-va. 25 Trước Giô-si-a, chẳng có một vua nào hết lòng, hết ý, hết sức mình, mà tríu mến Đức Giê-hô-va, làm theo trọn vẹn luật pháp của Môi-se; và sau người cũng chẳng có thấy ai giống như người nữa. 26 Dầu vậy, Đức Giê-hô-va không nguôi cơn giận nóng và mạnh mà Ngài nổi lên cùng Giu-đa, vì cớ các tội trọng của Ma-na-se trêu chọc Ngài. 27 Vả, Đức Giê-hô-va có phán rằng: Ta sẽ cất Giu-đa khỏi mặt ta như ta đã cất Y-sơ-ra-ên đi, và ta sẽ trừ bỏ thành Giê-ru-sa-lem mà ta đã chọn, và đền thờ mà ta phán về nó rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó.
28 Các chuyện khác của Giô-si-a, những công việc người làm, đều chép trong sử ký về các vua Giu-đa.

Giô-si-a qua đời

29 Trong đời Giô-si-a, Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ê-díp-tô, đi lên sông Ơ-phơ-rát, hãm đánh vua A-si-ri. Giô-si-a bèn đi ngữ người. Nhưng Pha-ra-ôn vừa khi gặp người, bèn giết đi tại Mê-ghi-đô. 30 Từ Mê-ghi-đô, các tôi tớ chở thây người trên xe về Giê-ru-sa-lem, rồi chôn người tại trong mồ mả người. Dân của xứ chọn Giô-a-cha, con trai Giô-si-a, xức dầu cho người, và tôn người lên làm vua thế cho cha người.

Giô-a-cha và Giê-hô-gia-kim cai trị

31 Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên làm vua; người cai trị ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na. 32 Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, theo trọn gương của các tổ phụ mình đã làm. 33 Pha-ra-ôn Nê-cô bắt giam người tại Ríp-la, trong xứ Ha-mát, hầu cho người không cai trị tại Giê-ru-sa-lem nữa. Lại, người bắt xứ tiến cống một trăm ta-lâng bạc và một ta-lâng vàng. 34 Đoạn, Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim, con trai Giô-si-a, làm vua thế cho Giô-si-a, cha người, và cải tên người là Giê-hô-gia-kim. Còn Giô-a-cha bị bắt làm phu tù tại Ê-díp-tô, và người qua đời tại đó. 35 Giê-hô-gia-kim nộp cho Pha-ra-ôn những bạc và vàng ấy. Nhưng để lo cho có số tiền Pha-ra-ôn đòi, thì người phải đánh thuế dân của xứ; người định thuế vàng bạc mỗi người phải giữ đóng; đoạn người giao hết cho Pha-ra-ôn Nê-cô.
36 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên làm vua, và người cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Xê-bụt-đa, con gái Phê-đa-gia ở Ru-ma. 37 Người làm điều ác tại trước mặt Đức Giê-hô-va, theo trọn gương các tổ phụ mình đã làm.

23

Pơtao Yôsiyahu Pơphrâo Glaĭ Tơlơi Pơgop

(2 Hră Ruai 34:29-33)

1Giŏng anŭn, pơtao iâu rai abih bang ƀing kŏng tha amăng lŏn čar Yudah laih anŭn amăng plei phŭn Yerusalaim. 2Ñu đĭ nao pơ sang yang Yahweh hrŏm hăng ƀing đah rơkơi Yudah, ƀing ană plei Yerusalaim, ƀing khua ngă yang laih anŭn ƀing pô pơala wơ̆t hăng abih bang ƀing ană plei jing ƀing hlak ai hăng ƀing tha mơ̆n. Ñu đŏk ƀơi anăp ƀing ană plei abih bang boh hiăp amăng Hơdrôm Hră Tơlơi Pơgop, jing mơ̆ng hră arăng hơmâo hơduah ƀuh laih amăng sang yang Yahweh. 3Pơtao dŏ dơ̆ng jĕ ƀơi tơmĕh ñu juăt dŏ laih anŭn pơphrâo glaĭ tơlơi pơgop ƀơi anăp Yahweh. Anŭn jing tơlơi ƀuăn đuaĭ tui Yahweh laih anŭn djă̱ pioh khul tơlơi pơđar, tơlơi phiăn, tơlơi pơtă pơtăn Ñu hăng abih pran jua abih bơngăt. Tui anŭn yơh, pơtao pơkơjăp pơgiŏng hĭ khul boh hiăp tơlơi pơgop hơmâo čih laih amăng hră anŭn. Giŏng anŭn, abih bang ană plei ƀuăn jao gơñu pô kiăng kơ djă̱ pioh tơlơi pơgop anŭn yơh.

Pơtao Yôsiyahu Pơrai Hĭ Tơlơi Kơkuh Pơpŭ Kơ Yang Rơba̱ng

(2 Hră Ruai 34:3-7)

4Pơtao pơđar kơ khua ngă yang prŏng hloh Hilkiyah, ƀing khua ngă yang kơiăng laih anŭn ƀing gak wai amăng ja̱ng kiăng kơ mă pơđuaĭ hĭ abih bang gơnam yua pơkra kơ kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng Baal, HʼAsêrah laih anŭn kơ abih bang khul pơtŭ hăng adai adih. Ñu čuh pơrai hĭ abih bang gơnam anŭn pơ gah rơngiao kơ plei Yerusalaim amăng đang hơma dơnung Kidrôn laih anŭn ba hơbâo tơpur gơnam anŭn nao pơ plei pơnăng Bêthêl. 5Ñu ăt puh pơđuaĭ hĭ ƀing khua ngă yang kơ ƀing yang rơba̱ng. Ƀing pơtao Yudah hơmâo ruah mă laih hlâo adih kiăng kơ čuh gơnam ƀâo mơngưi ƀơi khul anih glông amăng plei pla ƀing Yudah laih anŭn amăng hơdôm plei pla jum dar plei Yerusalaim mơ̆n. Ƀing khua ngă yang anŭn jing ƀing čuh gơnam ƀâo mơngưi kơ yang rơba̱ng Baal, kơ yang hrơi yang blan, kơ khul grup pơtŭ laih anŭn kơ abih bang khul pơtŭ pơkŏn hăng adai adih. 6Yôsiyahu mă tơmĕh yang HʼAsêrah mơ̆ng sang yang Yahweh ba nao pơ dơnung Kidrôn gah rơngiao kơ plei Yerusalaim laih anŭn čuh hĭ pơ anŭn. Ñu tŭl hơbâo tơpur anŭn jing ƀlĭ laih anŭn pruai khul hơbâo anŭn ƀơi khul anih pơsat ană plei. 7Ñu ăt pơglưh trŭn hĭ khul anih dŏ ƀing đah rơkơi rĭh răm iâu yang, jing anih dŏ amăng sang yang Yahweh. Amăng anih anŭn mơ̆n, ƀing đah kơmơi mơñam sum ao kơ khul tơmĕh yang HʼAsêrah.
8Yôsiyahu ba rai abih bang ƀing khua ngă yang mơ̆ng plei pla ƀing Yudah laih anŭn pơgrĭ pơgreñ hĭ khul anih glông kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng čơdơ̆ng mơ̆ng plei pơnăng Geba gah dư̱r truh pơ plei pơnăng Beêrseba gah thu̱ng, jing khul anih ƀing khua ngă yang anŭn čuh gơnam ƀâo mơngưi kơ yang rơba̱ng. Ñu pơglưh trŭn hĭ khul sang iâu yang ƀơi amăng ja̱ng plei, jing ƀơi bah amăng mŭt nao pơ Amăng Ja̱ng Yôsua, jing pô khua wai plei anŭn. Khul anih anŭn dŏ ƀơi gah ieo tơdang mŭt pơ amăng ja̱ng plei. 9Ƀing khua ngă yang jing ƀing hơmâo čuh gơnam pơyơr amăng khul anih glông ƀu dưi rai mă bruă pơ kơnưl ngă yang Yahweh amăng plei Yerusalaim ôh, samơ̆ ƀing gơñu dưi ƀơ̆ng ƀañ ƀu hơmâo tơpơi hăng ƀing ayŏng adơi khua ngă yang gơñu yơh.
10Ñu pơgrĭ pơgreñ hĭ anih Tôphet ƀơi anih dơnung Ben-Hinnôm, kiăng kơ ƀu hơmâo hlơi pô dơ̆ng tah dưi yua anih anŭn kiăng kơ čuh ngă yang ƀing ană bă ñu amăng apui kơ yang Môlek. 11Ñu ăt mă pơđuaĭ hĭ mơ̆n khul rup aseh ƀing pơtao Yudah hơmâo pơyơr laih kơ yang hrơi hlâo adih, laih anŭn čuh hĭ khul rơdêh aseh ƀing gơñu hơmâo pơyơr laih kơ yang hrơi anŭn. Arăng hơmâo pioh khul rup aseh anŭn ƀơi bah amăng mŭt nao pơ sang yang Yahweh. Anih anŭn dŏ amăng anih wăl tơdron jĕ anih dŏ Nathan-Melek jing sa čô khua moa.
12Yôsiyahu pơglưh trŭn khul kơnưl ngă yang ƀing pơtao Yudah hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih hlâo adih jĕ anih pơtao Ahaz hơmâo pơkra laih gah ngŏ ƀơi bơbŭng sang. Ñu ăt pơglưh trŭn kơnưl pơtao Manasseh hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih amăng dua boh anih wăl tơdron sang yang Yahweh. Ñu mă pơđuaĭ hĭ abih khul kơnưl mơ̆ng anih anŭn, taih pơrai hĭ laih anŭn glŏm nao pơ anih djăh amăng dơnung Kidrôn yơh. 13Giŏng anŭn, pơtao pơgrĭ pơgreñ hĭ lu khul anih glông kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng gah ngŏ̱ kơ plei Yerusalaim ƀơi gah thu̱ng kơ bŏl čư̆ Brŭ Răm mơ̆n, jing anih Solomôn pơtao ƀing Israel hlâo adih hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih kơ HʼAstôret jing yang ƀai ƀing Sidôn, kơ Kemôs jing yang ƀai ƀing Môab, laih anŭn kơ Môlek jing yang hơƀak drak ƀing Ammôn. 14Yôsiyahu pơphač hĭ khul rup trah yang rơba̱ng, pơglưh hĭ khul tơmĕh yang HʼAsêrah laih anŭn pơkom hĭ khul tơlang mơnuih ƀơi anih anŭn.
15Hlâo kơ anŭn dơ̆ng, Yôsiyahu ăt pơrai hĭ mơ̆n kơnưl ngă yang ƀơi anih Bêthêl, jing anih glông kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng pơtao Yarobam, ană đah rơkơi Nebat, hơmâo pơkra laih, kiăng kơ dui ba ƀing Israel ngă soh. Yôsiyahu čuh hĭ khul gơnam yua kơkuh pơpŭ ƀơi anih glông anŭn, pơsăn hĭ jing ƀlĭ laih anŭn ñu ăt čuh pơrai hĭ tơmĕh rup trah HʼAsêrah mơ̆n. 16Giŏng anŭn, Yôsiyahu lăng hyu jum dar laih anŭn tơdang ñu ƀuh khul anih pơsat pơ anih anŭn ƀơi ke̱ng bŏl čư̆, ñu brơi arăng mă tơbiă hĭ khul tơlang anŭn laih anŭn čuh hĭ ƀơi kơnưl ngă yang anŭn kiăng kơ kơnưl anŭn jing hĭ grĭ grañ. Tơlơi Yôsiyahu ngă anŭn pơkrĕp truh hĭ tui hăng boh hiăp Yahweh pơhaih laih mơ̆ng mơnuih Ơi Adai jing pô pơala laĭ lui hlâo laih.
17Pơtao kơčrâo laih anŭn tơña tui anai, “Pơtâo pơsat hlơi anŭn lĕ?”
 Ƀing mơnuih plei Bêthêl anŭn laĭ glaĭ tui anai, “Anŭn jing gru kơnăl pơsat mơnuih Ơi Adai jing pô pơala rai mơ̆ng lŏn čar Yudah laih anŭn pơhiăp pơkơdơ̆ng glaĭ hăng kơnưl ngă yang ƀơi anih Bêthêl, jing kơnưl ih hơmâo pơrai anŭn yơh.”
18Yôsiyahu laĭ tui anai, “Lui brơi gơ̆ kar hăng anŭn bĕ; anăm brơi ôh hlơi pô pơsŭh khul tơlang gơ̆.” Tui anŭn, ƀing gơñu ƀu mă ôh tơlang gơ̆ wơ̆t hăng khul tơlang ƀing pô pơala hơmâo rai laih mơ̆ng tring Samaria.
19Kar hăng ñu pơgiŏng laih ƀơi anih Bêthêl, Yôsiyahu pơglưh trŭn hĭ abih bang sang iâu yang ƀơi khul anih glông, jing anih ƀing pơtao Israel hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih hlâo adih amăng plei pla jum dar plei phŭn Samaria laih anŭn hơmâo čuih laih kơ Yahweh hil. 20Abih bang ƀing khua ngă yang amăng khul anih glông anŭn, Yôsiyahu pơdjai hĭ ƀơi khul kơnưl ngă yang laih anŭn čuh hĭ khul tơlang mơnuih pơkŏn ƀơi khul kơnưl anŭn. Giŏng anŭn, ñu wơ̆t glaĭ pơ plei Yerusalaim yơh.

Pơtao Yôsiyahu Hăng Ƀing Yudah Djă̱ Hơdơr Tơlơi Găn

(2 Hră Ruai 35:1-19)

21Pơtao pơtă kơ abih bang ƀing ană plei tui anai, “Djă̱ hơdơr bĕ Tơlơi Găn kơ Yahweh Ơi Adai gih tui hăng tơlơi hơmâo čih laih amăng Hơdrôm Hră Tơlơi Pơgop anŭn.” 22Čơdơ̆ng mơ̆ng rơnŭk ƀing khua phat kơđi jing pô dui ba ƀing Israel hlŏng truh kơ rơnŭk ƀing pơtao Israel laih anŭn rơnŭk ƀing pơtao Yudah, ƀu hơmâo ôh tơlơi djă̱ hơdơr kơ Tơlơi Găn prŏng hrup hăng anŭn. 23Ƀing gơñu djă̱ hơdơr Tơlơi Găn anŭn amăng plei Yerusalaim, jing amăng thŭn tal pluh-sapăn rơnŭk Yôsiyahu wai lăng yơh.
24Hloh kơ anŭn dơ̆ng, Yôsiyahu puh pơđuaĭ hĭ mơ̆ng lŏn čar Yudah laih anŭn mơ̆ng plei Yerusalaim abih bang ƀing iâu atâo rơkâo yang ƀing djai, ƀing yang sang anŏ, khul rup trah laih anŭn abih bang khul gơnam hơƀak drak pơkŏn dơ̆ng ƀing gơñu yua kiăng kơ kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng. Ñu ngă tơlơi anŭn kiăng ngă tui hăng hơdôm tơlơi čih laih amăng tơlơi juăt, jing amăng hră khua ngă yang hơmâo hơduah ƀuh laih amăng sang yang Yahweh anŭn. 25Ƀu hơmâo ôh pơtao pă hơdip hlâo kơ Yôsiyahu ƀôdah tơdơi kơ ñu, jing pô wơ̆t glaĭ kơ Yahweh kar hăng tơlơi ñu ngă laih, laih anŭn ngă tui abih bang tơlơi Juăt Môseh hăng abih pran jua, abih bơngăt laih anŭn hăng abih tơlơi kơtang ñu yơh.
26Wơ̆t tơdah tui anŭn, Yahweh ƀu pơhrŏ hĭ ôh mơ̆ng tơlơi Ñu hil ƀrŭk anŭn, jing tơlơi Ñu hil pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing Yudah yuakơ abih bang tơlơi pơtao Manasseh hơmâo čuih laih tơl Ñu hil biă mă. 27Tui anŭn, Yahweh laĭ tui anai, “Kâo či mă pơđuaĭ hĭ ƀing Yudah mơ̆ng anăp Kâo kar hăng Kâo mă pơđuaĭ hĭ laih ƀing Israel laih anŭn Kâo či hơngah lui hĭ plei Yerusalaim, jing plei Kâo ruah mă laih, wơ̆t hăng sang yang anŭn mơ̆n, jing anih Kâo hơmâo laĭ laih kơ tơlơi Kâo či pioh Anăn Kâo pơ anih anŭn yơh.”

Pơtao Yôsiyahu Tơĭ Pran

(2 Hră Ruai 35:20-26)

28Bơ kơ khul tơlơi truh pơkŏn dơ̆ng amăng rơnŭk Yôsiyahu git gai wai lăng wơ̆t hăng abih bang tơlơi bruă ñu ngă laih, arăng čih pioh laih amăng khul hră bruă mơnuă ƀing pơtao Yudah.
29Tơdang Yôsiyahu ngă pơtao, Pharaoh-Nekhôh pơtao čar Êjip đĭ nao pơ Krong Huphrat kiăng djru pơtao Assiria. Pơtao Yôsiyahu kơsung tơbiă kiăng blah pơtao Nekhôh, samơ̆ Nekhôh blah pơdjai hĭ ñu ƀơi plei pơnăng Megiđô. 30Ƀing ding kơna Yôsiyahu ba glaĭ atâo ñu hăng rơdêh aseh mơ̆ng plei Megiđô anŭn nao pơ plei Yerusalaim laih anŭn dơ̱r ñu pơ pơsat ñu pô. Giŏng anŭn, ƀing ană plei mă Yêhôahaz ană đah rơkơi Yôsiyahu laih anŭn trôč ia jâo ƀơi gơ̆ kiăng kơ jing pơtao pơala kơ ama gơ̆ yơh.

Yêhôahaz Ngă Pơtao Lŏn Čar Yudah

(2 Hră Ruai 36:2-4)

31Yêhôahaz hlak duapluh-klâo thŭn tơdang ñu jing pơtao laih anŭn ñu git gai wai lăng amăng plei Yerusalaim truh kơ klâo blan. Amĭ ñu jing mơnuih rai mơ̆ng plei Libnah laih anŭn anăn ñu jing HʼHamutal, ană đah kơmơi Yirmeyah. 32Yêhôahaz ngă tơlơi sat ƀai ƀơi anăp Yahweh kar hăng ƀing ơi adon ñu hơmâo ngă laih. 33Pơtao ƀing Êjip Pharaoh-Nekhôh anŭh hĭ ñu amăng hrĕ čuăk ƀơi plei Riblah amăng anih lŏn Hamat, kiăng kơ ñu ƀu dưi git gai wai lăng amăng plei Yerusalaim dơ̆ng tah laih anŭn ñu brơi ƀing ană plei Yudah duh jia sa-rơtuh talang amrăk laih anŭn sa talang mah. 34Pharaoh-Nekhôh brơi Elyakim ană đah rơkơi Yôsiyahu ngă pơtao amăng sang pơtao ama ñu laih anŭn pơplih hĭ anăn Elyakim jing hĭ Yehôyakim. Giŏng anŭn, ñu mă Yêhôahaz ba glaĭ pơ lŏn čar Êjip jing mơnă laih anŭn gơ̆ djai hĭ pơ anih anŭn yơh. 35Yehôyakim duh kơ Pharaoh-Nekhôh amrăk, mah jing gơnam ñu pơgŏ̱ gơ̆ duh. Amăng hơdră anŭn, ñu mă jia ƀing mơnuih amăng anih lŏn anai laih anŭn brơi ƀing gơ̆ duh jia amrăk, mah tui hăng tơlơi pơkă jia ƀing gơ̆ yơh.

Yehôyakim Ngă Pơtao Lŏn Čar Yudah

(2 Hră Ruai 36:5-8)

36Yehôyakim hlak duapluh-rơma thŭn tơdang ñu jing pơtao laih anŭn ñu git gai wai lăng amăng plei Yerusalaim truh kơ pluh-sa thŭn. Amĭ ñu jing mơnuih rai mơ̆ng plei Ramah, anăn ñu jing HʼZebidah, ană đah kơmơi Pedayah. 37Yehôyakim ngă tơlơi sat ƀai ƀơi anăp Yahweh kar hăng tơlơi ƀing ơi adon ñu hơmâo ngă laih hlâo adih.