6

Y-sơ-ra-ên bị dân Ma-đi-an hà hiếp. – Ghê-đê-ôn phụng mạng Đức Chúa Trời giải cứu dân Ngài

1 Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, nên Đức Giê-hô-va phó chúng vào tay dân Ma-đi-an trong bảy năm. 2 Tay của người Ma-đi-an thắng hơn Y-sơ-ra-ên. Vì sợ người Ma-đi-an, nên dân Y-sơ-ra-ên làm cho mình những nơi ẩn náu trong núi, trong các hầm và đồn. 3 Khi Y-sơ-ra-ên đã gieo giống, dân Ma-đi-an với dân A-mê-léc, và người phương Đông đi lên đánh Y-sơ-ra-ên, 4 đóng trại đối ngang người, phá hại mùa màng của xứ cho đến Ga-xa, và không để lại trong Y-sơ-ra-ên lương thực gì, hoặc chiên, bò hay là lừa. 5 Vì chúng nó đi lên đem theo bầy súc vật và trại mình, loán đến khác nào một đám cào cào. Người và lạc đà vô số đến trong xứ đặng phá hại. 6 Vậy, vì cớ dân Ma-đi-an, Y-sơ-ra-ên bị nghèo khổ bẩn chật, nên họ kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va.
7 Bấy giờ, vì dân Y-sơ-ra-ên đã kêu cầu Đức Giê-hô-va về việc dân Ma-đi-an, 8 nên Đức Giê-hô-va sai một đấng tiên tri đến cùng dân Y-sơ-ra-ên. Người nói cùng chúng rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ê-díp-tô, rút các ngươi khỏi nhà nô lệ, 9 giải cứu các ngươi khỏi tay người Ê-díp-tô, và khỏi tay hết thảy kẻ hà hiếp các ngươi, và đuổi chúng nó khỏi trước mặt các ngươi; ta đã ban cho các ngươi xứ của chúng nó, 10 và có phán rằng: Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, chớ sợ các thần của dân A-mô-rít tại trong xứ mà các ngươi ở. Nhưng các ngươi nào có nghe tiếng ta!
11 Đoạn, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đến ngồi dưới cây thông Óp-ra thuộc về Giô-ách, người A-bi-ê-xê-rít, Ghê-đê-ôn, con trai người, đương đập lúa mạch trong bàn ép, đặng giấu khỏi dân Ma-đi-an. 12 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người mà rằng: Hỡi người dõng sĩ! Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi. 13 Ghê-đê-ôn thưa rằng: Ôi! Chúa, nếu Đức Giê-hô-va ở cùng chúng tôi, sao các điều nầy xảy đến cho chúng tôi? Các phép lạ kia ở đâu mà tổ phụ chúng tôi đã thuật lại rằng: Đức Giê-hô-va há chẳng có đem chúng ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô sao? Vì bây giờ Đức Giê-hô-va từ bỏ chúng tôi, và phó chúng tôi vào tay dân Ma-đi-an. 14 Đức Giê-hô-va xây lại cùng người mà phán rằng: Hãy dùng sức của ngươi vẫn có mà đi giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an. Ta há chẳng sai ngươi đi sao? 15 Người thưa rằng: Than ôi! hỡi Chúa, tôi sẽ lấy chi giải cứu Y-sơ-ra-ên? Kìa, trong chi phái Ma-na-se, họ tôi vốn nghèo hơn hết; còn tôi là nhỏ hơn hết trong nhà cha tôi. 16 Đức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ ở cùng ngươi, và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy.
17 Ghê-đê-ôn thưa lại rằng: Nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin ban cho tôi một dấu rằng chính Chúa phán cùng tôi. 18 Xin chớ dang khỏi đây cho đến khi tôi trở lại cùng Ngài, đem của lễ tôi, để trước mặt Ngài. Ngài đáp: Ta sẽ ở đây cho đến khi ngươi trở lại. 19 Ghê-đê-ôn bèn đi vô, dọn sẵn một con dê con, lấy một ê-pha bột làm những bánh nhỏ không men. Người để thịt trong rổ, đổ nước thịt vào nồi, rồi đem ra dâng các món ấy cho Ngài ở dưới cây thông. 20 Thiên sứ của Đức Chúa Trời phán rằng: Hãy lấy thịt và bánh nhỏ không men, để trên hòn đá nầy, rồi đổ nước thịt ra. Ghê-đê-ôn bèn làm như vậy. 21 Bấy giờ, thiên sứ của Đức Giê-hô-va giơ đầu gậy Ngài đương cầm nơi tay mình ra, đụng đến thịt và bánh nhỏ không men. Lửa từ hòn đá bốc lên, thiêu hóa thịt và bánh nhỏ không men; đoạn, thiên sứ của Đức Giê-hô-va biến đi khỏi mắt người. 22 Ghê-đê-ôn thấy rằng ấy là thiên sứ của Đức Giê-hô-va, bèn la rằng: Ôi, Chúa Giê-hô-va! Khốn nạn cho tôi, vì tôi thấy đối diện thiên sứ của Đức Giê-hô-va! 23 Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng người rằng: Khá yên lòng, chớ sợ chi, ngươi sẽ không chết đâu. 24 Ghê-đê-ôn bèn lập tại đó một cái bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, và đặt tên là Giê-hô-va Sa-lam. Tại Óp-ra, thành của người A-bi-ê-xê-rít, cái bàn thờ ấy vẫn còn lại đến ngày nay.
25 Trong cũng một đêm ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn rằng: Hãy bắt con bò đực tơ của cha ngươi, và một con bò đực thứ nhì bảy tuổi, rồi phá dỡ bàn thờ thần Ba-anh tại nhà cha ngươi, và đánh hạ hình tượng A-sê-ra ở trên đó. 26 Đoạn, tại nơi chót hòn đá nầy, ngươi sẽ lập một bàn thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và sắp đặt mọi việc; rồi hãy bắt con bò đực thứ nhì, dâng làm của lễ thiêu với gỗ hình tượng A-sê-ra mà ngươi đã đánh hạ. 27 Ghê-đê-ôn chọn lấy mười người trong bọn đầy tớ mình, và làm theo điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn; và vì người sợ nhà cha mình cùng kẻ trong thành, nên không dám làm theo lịnh ấy ban ngày, bèn làm ban đêm. 28 Sớm mai, khi dân trong thành thức dậy, thấy bàn thờ của thần Ba-anh đã bị phá dỡ, hình tượng A-sê-ra ở trên bị đánh hạ, và con bò đực thứ nhì đã dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ mới lập đó. 29 Chúng hỏi nhau rằng: Ai làm điều đó? Đoạn, hỏi thăm và tra xét. Có người nói cùng chúng nó rằng: Ấy là Ghê-đê-ôn, con trai Giô-ách, đã làm điều đó. 30 Dân trong thành bèn nói cùng Giô-ách rằng: Hãy biểu con ngươi ra, nó phải chết, vì nó đã phá dỡ bàn thờ thần Ba-anh, và đánh hạ hình tượng A-sê-ra ở trên. 31 Giô-ách đáp với những kẻ dấy nghịch cùng mình rằng: Các ngươi há có ý binh vực Ba-anh sao? Há có phải các ngươi muốn tiếp cứu nó ư? Ai theo phe Ba-anh sẽ bị xử tử kể từ sáng ngày nay. Nếu hắn là chúa, thì chính hắn hãy tranh luận lấy chớ, bởi vì người ta đã phá dỡ bàn thờ của hắn! 32 Vậy, trong ngày đó người ta gọi Ghê-đê-ôn là Giê-ru-ba-anh mà rằng: Ba-anh phải tranh luận cùng người, vì Ghê-đê-ôn có phá dỡ bàn thờ của hắn!
33 Hết thảy dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và người phương Đông đều hiệp lại, đi ngang qua sông Giô-đanh, và đóng trại tại trũng Gít-rê-ên. 34 Thần của Đức Giê-hô-va cảm hóa Ghê-đê-ôn; người thổi kèn, các người A-bi-ê-xê-rít bèn hiệp lại đặng theo người. 35 Người cũng sai sứ giả đi khắp Ma-na-se; người Ma-na-se bèn nhóm hiệp đặng đi theo người. Đoạn, người sai sứ giả đến chi phái A-se, Sa-bu-lôn và Nép-ta-li; họ cũng đi lên mà hiệp với người nữa.
36 Ghê-đê-ôn thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nếu Chúa muốn dùng tay tôi giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như lời Chúa đã phán, 37 thì tôi sẽ để một lốt chiên trong sân đạp lúa; nếu sương chỉ đóng trên lốt chiên, còn đất lại khô ráo, thì tôi sẽ nhận biết Chúa dùng tay tôi giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như Chúa đã hứa vậy. 38 Việc bèn xảy ra như vậy: Ngày mai Ghê-đê-ôn dậy sớm, ép vắt lốt chiên, thì sương chảy ra đầy một chén nước. 39 Ghê-đê-ôn lại thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Xin cơn thạnh nộ Chúa chớ nổi phừng cùng tôi, tôi chỉ sẽ nói lần nầy thôi. Xin Chúa để tôi làm thử với lốt chiên chỉ một lần nầy mà thôi: Xin cho một mình lốt chiên phải khô, còn sương lại đóng khắp trên đất. 40 Trong đêm đó, Đức Chúa Trời bèn làm như vậy: Chỉ một mình lốt chiên thì khô, còn khắp trên đất lại bị sương phủ.

6

Gideôn Jing Pô Pơklaih Tal Rơma

1Tơdơi kơ pă̱pluh thŭn anŭn, ƀing Israel ăt ngă sat ƀai dơ̆ng ƀơi anăp Yahweh mơ̆n. Tui anŭn, amăng tơjuh thŭn Ñu brơi kơ ƀing Midyan blah juă hĭ ƀing Israel. 2Yuakơ ƀing Midyan hơmâo tơlơi dưi kơtư̆ juă kơ ƀing Israel kơtang biă mă, tui anŭn ƀing Israel pơkra kơ gơñu pô khul anih đuaĭ kơdŏp amăng hơ̆ng dơ̆ng čư̆, amăng pa̱r čư̆ laih anŭn amăng kơđông kơjăp pơkŏn yơh. 3Tơdang ƀơi mông pă ƀing Israel jŭ pla gơnam tăm ƀing gơ̆, ƀing Midyan, ƀing Amalek laih anŭn ƀing mơnuih mơ̆ng čar gah ngŏ̱ kơ ƀing Israel rai wang blah lŏn čar ƀing gơ̆ yơh. 4Ƀing rŏh ayăt anŭn dŏ jưh amăng anih lŏn ƀing Israel laih anŭn pơrai hĭ abih bang gơnam tăm hlŏng truh pơ anih Gaza gah yŭ̱. Ƀing gơñu ƀu pioh glaĭ sa drơi hlô mơnơ̆ng rong hơget gĕt ôh kơ ƀing Israel wơ̆t hăng khul triu bơbe, rơmô laih anŭn aseh glai. 5Ƀing gơñu jing lu biă mă hrup hăng khul kơtop hlăt yơh đĭ rai wơ̆t hăng khul hlô mơnơ̆ng rong gơñu laih anŭn pơdơ̆ng đĭ khul sang khăn gơñu. Ƀing mơnuih laih anŭn aseh samô gơñu jing lu biă mă ƀu dưi yap ôh. Ƀing gơñu wang blah anih lŏn anai kiăng pơrai hĭ yơh. 6Tui anŭn, ƀing Israel jing hĭ rin ƀun yuakơ ƀing Midyan tơl ƀing Israel iâu kwưh Yahweh kơ tơlơi djru yơh.
7Tơdang ƀing Israel iâu kwưh Yahweh yuakơ ƀing Midyan kơtư̆ juă tui anŭn, 8Yahweh pơkiaŏ rai sa čô pô pơala kơ ƀing gơñu kiăng kơ pơhiăp ƀuăh kơ ƀing gơñu, laih anŭn pô pơala anŭn laĭ tui anai, “Anai yơh jing tơlơi Yahweh Ơi Adai ƀing Israel laĭ:
  “Kâo ba tơbiă laih ơi adon gih mơ̆ng lŏn čar Êjip,
   jing tơbiă hĭ laih mơ̆ng anih lŏn hlŭn mơnă anŭn.
  9Kâo pơklaih hĭ laih ƀing gih mơ̆ng tơlơi dưi ƀing Êjip
   laih anŭn mơ̆ng abih bang tơngan ƀing kơtư̆ juă gih amăng anih lŏn anai.
  Kâo puh pơđuaĭ hĭ laih ƀing gơñu tơdang ƀing gih mŭt pơ anih lŏn anŭn
   laih anŭn Kâo ăt pha brơi kơ ƀing gih anih lŏn gơñu anŭn mơ̆n.
  10Tơdơi kơ anŭn, Kâo pơtă laih hăng ƀing gih,
   ‘Kâo jing Yahweh Ơi Adai gih;
  anăm kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng ƀing Amôr
   jing ƀing gih hlak dŏ amăng anih lŏn gơñu anŭn ôh.’
  Samơ̆ ƀing gih ƀu hơmư̆ ngă tui tơlơi Kâo pơđar ôh.”
11Giŏng anŭn, ling jang Yahweh rai pơ plei Oprah laih anŭn dŏ be̱r ƀơi anih gah yŭ kơyâo sen jing anih lŏm kơ Yôas mơnuih Abiezer. Ană ñu Gideôn hlak prăh pơdai amăng anih anŭn ƀơi anih djet boh kơƀâo kiăng kơ ƀing Midyan ƀu thâo ƀuh ñu ôh. 12Tơdang ling jang Yahweh pơƀuh rai kơ Gideôn, ling jang anŭn laĭ tui anai, “Yahweh dŏ hrŏm hăng ih, Ơ pô tơhan khĭn kơtang ăh.”
13Gideôn laĭ glaĭ tui anai, “Samơ̆, Ơ khua hơi, tơdah Yahweh dŏ hrŏm hăng ƀing gơmơi, yua hơget abih bang tơlơi tơnap tap anai truh kơ ƀing gơmơi lĕ? Yua hơget ƀing gơmơi ƀu ƀuh tơlơi mơyang Ñu kar hăng tơlơi ƀing ơi adon gơmơi ră ruai laih kơ ƀing gơmơi kơ tơlơi Ñu ba tơbiă laih ƀing gơñu mơ̆ng čar Êjip hlâo adih lĕ? Samơ̆ amăng rơnŭk anai, Yahweh hơmâo đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng ƀing gơmơi laih, laih anŭn ăt jao hĭ laih ƀing gơmơi amăng tơngan ƀing Midyan mơ̆n.”
14Yahweh lăng ƀơi Gideôn hăng laĭ tui anai, “Nao bĕ hăng tơlơi prŏng kơtang ih hơmâo laih anŭn pơklaih hĭ bĕ ƀing Israel mơ̆ng tơlơi dưi ƀing Midyan. Kâo pô yơh pơkiaŏ ih nao anai.”
15Gideôn tơña dơ̆ng tui anai, “Samơ̆, Ơ khua ăh, hiư̆m kâo dưi pơklaih hĭ ƀing Israel lĕ? Djuai kâo jing sa djuai tơdu biă mă yơh amăng kơnung djuai ƀing Manasseh, laih anŭn kâo ăt jing sa čô ƀu yom pơphan mơ̆n amăng sang anŏ kâo.”
16Yahweh laĭ glaĭ tui anai, “Kâo či dŏ hrŏm hăng ih, tui anŭn ih či pơrai hĭ abih bang ƀing Midyan kar hăng ƀing gơñu kơnơ̆ng jing sa čô mơnuih đôč yơh.”
17Gideôn laĭ glaĭ tui anai, “Ră anai tơdah kâo hơmâo tơlơi pơmơak ƀơi anăp ih, rơkâo ih brơi bĕ kơ kâo sa gru kơnăl jing tơlơi ih pô yơh hlak pơhiăp hăng kâo. 18Rơkâo kơ ih anăm đuaĭ hĭ ôh tơl kâo wơ̆t glaĭ hăng ba rai gơnam ƀơ̆ng kâo laih anŭn pioh pơyơr ƀơi anăp ih hŏ.”
 Giŏng anŭn, Yahweh laĭ tui anai, “Kâo či dŏ tơguan tơl ih wơ̆t glaĭ yơh.”
19Gideôn đuaĭ nao, prap rơmet sa drơi ană bơbe; mơ̆ng sa ephah tơpŭng, ñu pơkra ƀañ tơpŭng ƀu hơmâo tơpơi. Ñu pioh añăm mơnơ̆ng amăng sa boh bai laih anŭn tuh mŭt ia añăm amăng sa boh gŏ. Giŏng anŭn, ñu ba rai hơdôm gơnam ƀơ̆ng anŭn laih anŭn pơyơr kơ ling jang anŭn gah yŭ kơyâo sen yơh.
20Ling jang Ơi Adai pơtă kơ ñu tui anai, “Mă bĕ añăm laih anŭn ƀañ tơpŭng ƀu hơmâo tơpơi anŭn, pioh bĕ ƀơi boh pơtâo anai laih anŭn tuh tơbiă bĕ ia añăm ƀơi gơnam ƀơ̆ng anŭn.” Tui anŭn, Gideôn ngă tui hăng anŭn yơh. 21Giŏng anŭn, ling jang Yahweh yơr tĕk djơ̆ ƀơi gơnam ƀơ̆ng anŭn hăng akŏ gai jra ñu djă̱ ƀơi tơngan ñu. Apui tơbiă mơ̆ng boh pơtâo ƀơ̆ng hĭ abih gơnam ƀơ̆ng anŭn mơtam. Giŏng anŭn, ling jang Yahweh đuaĭ hĭ thĕng yơh. 22Tơdang Gideôn thâo krăn anŭn jing ling jang Yahweh, tui anŭn ñu huĭ bra̱l hăng ur đĭ tui anai, “Ơ Khua Yang Yahweh ăh! Kâo hơmâo ƀuh laih ling jang Ih anăp klă̱ anăp!”
23Samơ̆ Yahweh laĭ kơ ñu tui anai, “Hơđơ̆ng pran jua bĕ! Anăm huĭ bra̱l ôh. Ih ƀu či djai hĭ ôh.”
24Tui anŭn, Gideôn pơkra sa boh kơnưl ngă yang kơ Yahweh pơ anŭn laih anŭn pơanăn kơnưl anŭn: Yahweh jing Tơlơi Rơnŭk Rơnua. Hlŏng truh kơ tă anai, kơnưl anŭn ăt dŏ ƀơi anih lŏm kơ ƀing Abiezer amăng anih Oprah yơh.

Gideôn Pơrai Hĭ Kơnưl Ngă Yang Kơ Yang Baal

25Amăng mlam anŭn mơ̆n, Yahweh pơhiăp hăng Gideôn tui anai, “Mă bĕ rơmô tơno hiam tal dua mơ̆ng tơpul rơmô ama ih, jing rơmô tha tơjuh thŭn anŭn. Pơrai hĭ bĕ kơnưl ngă yang ama ih pioh kơkuh kơ yang rơba̱ng đah rơkơi Baal laih anŭn pơglưh hĭ bĕ tơmĕh jing gru kơnăl kơ yang rơba̱ng đah kơmơi HʼAsêrah jĕ anŭn. 26Giŏng anŭn, ih pơdơ̆ng đĭ bĕ sa kơnưl ngă yang djơ̆ lăp kơ Yahweh Ơi Adai ih ƀơi gah ngŏ pơtâo prŏng anai. Mă yua bĕ kơyâo tơmĕh HʼAsêrah ih pơglưh trŭn anŭn kiăng kơ čuh laih anŭn pơyơr bĕ rơmô tơno anŭn jing gơnam pơyơr čuh.”
27Tui anŭn, Gideôn djă̱ ba pluh čô ƀing ding kơna ñu laih anŭn ngă tui hăng tơlơi Yahweh hơmâo pơtă laih. Yuakơ ñu huĭ kơ sang anŏ ñu laih anŭn kơ ƀing mơnuih amăng plei anŭn, tui anŭn ñu ƀu ngă ôh tơlơi anŭn tơdang hrơi samơ̆ tơdang mlam yơh.
28Amăng mơguah tơdang ƀing ană plei tơgŭ mơ̆ng pĭt, ƀing gơñu ƀuh kơnưl ngă yang rơba̱ng Baal răm rai wơ̆t hăng tơmĕh kơyâo yang rơba̱ng HʼAsêrah ƀu ƀuh ôh pơ anŭn wơ̆t hăng rơmô tơno ngă yang ƀơi kơnưl phrâo pơdơ̆ng đĭ anŭn mơ̆n dŏ glaĭ ƀiă!
29Giŏng anŭn, ƀing gơñu pơtơña kơ tơdruă gơñu tui anai, “Hlơi pô ngă tơlơi anŭn lĕ?” Tơdang ƀing gơñu ep kơsem tơña hơduah, arăng laĭ pơthâo kơ ƀing gơñu tui anai, “Anŭn jing Gideôn ană Yôas yơh, jing pô ngă kơ tơlơi anŭn.”
30Tui anŭn, ƀing ană plei pơđar kơ Yôas tui anai, “Ba tơbiă bĕ ană đah rơkơi ih anŭn. Ñu khŏm tŭ tơlơi djai yơh yuakơ ñu hơmâo pơrai hĭ laih kơnưl Baal laih anŭn pơglưh hĭ tơmĕh kơyâo HʼAsêrah jĕ ƀơi anŭn.”
31Samơ̆ Yôas laĭ glaĭ kơ ƀing mơnuih ƀrŭk hil anŭn tui anai, “Ƀing gih či gŭm djru brơi kơ yang Baal hă? Ƀing gih kiăng pơhiăp pơklaih brơi kơ ñu hă? Ƀing hlơi pô gŭm djru brơi kơ Baal, ƀing gơñu anŭn khŏm djai hĭ ƀơi mông mơguah pơgi yơh! Tơdah Baal jing yang, ñu dưi gŭm djru brơi kơ ñu pô yơh tơdah hlơi pô pơrai hĭ kơnưl ngă yang ñu.” 32Tui anŭn, amăng hrơi anŭn ƀing gơñu pơanăn kơ Gideôn jing, “Yêrub-Baal” kiăng laĭ, “Brơi Baal pô rŭ nua ƀơi ñu,” yuakơ ñu hơmâo pơrai hĭ laih kơnưl yang Baal.
33Hlak anŭn, abih bang ƀing Midyan, ƀing Amalek laih anŭn abih bang ƀing mơnuih lŏn čar gah ngŏ̱ kơ krong Yurdan, rai pơgop ƀing ling tơhan gơñu hrŏm hơbĭt. Ƀing gơñu găn krong Yurdan laih anŭn dŏ jưh amăng dơnung Yizreel. 34Giŏng anŭn, Yang Bơngăt Ơi Adai rai dŏ ƀơi Gideôn kiăng kơ git gai ñu. Tui anŭn, ñu ayŭp tơki iâu pơƀut glaĭ ƀing djuai Abiezer yơh kiăng kơ đuaĭ tui ñu. 35Ñu pơkiaŏ ƀing ding kơna ñu nao laĭ pơthâo pơ djŏp anih amăng kơnung djuai ƀing Manasseh, kiăng iâu mơthưr ƀing gơñu pơgop hăng ling tơhan ñu. Giŏng anŭn, Ñu ăt iâu mơthưr ƀing kơnung djuai ƀing Aser, Zebulun hăng Naptali, laih anŭn abih bang ƀing ling tơhan ƀing gơ̆ đĭ nao pơgop hăng ƀing gơñu yơh.

Gideôn Rơkâo Kơ Ơi Adai Gru Kơnăl

36Gideôn iâu laĭ kơ Ơi Adai tui anai, “Tơdah Ih či pơklaih hĭ ƀing Israel yua mơ̆ng tơngan kâo jing tui hăng tơlơi Ih hơmâo ƀuăn laih, 37rơkâo kơ Ih brơi bĕ kơ kâo gru kơnăl tui anai: Kâo či pioh sa blah blâo triu anai ƀơi anih prăh pơdai. Tơdah hơmâo ia ngo̱m kơnơ̆ng ƀơi blâo triu đôč laih anŭn jum dar lŏn le̱ng kơ jing thu soh sel, tui anŭn kâo či thâo krăn Ih yơh či pơklaih hĭ ƀing Israel yua mơ̆ng tơngan kâo tui hăng tơlơi Ih laĭ laih.” 38Giŏng anŭn, tơlơi ñu rơkâo anŭn truh hrup hăng anŭn yơh. Tơdang Gideôn tơgŭ mơguah ưm amăng hrơi tŏ tui, ñu weñ blâo triu anŭn pơtơbiă hĭ ia ngo̱m mơ̆ng anŭn, laih anŭn bă kơ sa boh mŏng yơh.
39Giŏng anŭn, Gideôn iâu laĭ kơ Ơi Adai dơ̆ng tui anai, “Anăm hil kơ kâo ôh. Brơi kâo rơkâo kơ Ih sa wơ̆t dơ̆ng bĕ. Brơi kơ kâo lông lăng dơ̆ng bĕ hăng blâo triu anai. Tal anai, rơkâo kơ Ih ngă brơi bĕ blâo triu thu samơ̆ lŏn bă hăng ia ngo̱m.” 40Mlam anŭn, Ơi Adai ngă tui hăng anŭn yơh. Kơnơ̆ng blâo triu đôč thu, samơ̆ abih bang lŏn jum dar le̱ng kơ hơmâo ia ngo̱m soh sel yơh.