2

Phần lịch sử

(Từ đoạn 2 đến 6)

Đa-ni-ên giải chiêm bao của vua. – Sự hiện thấy về pho tượng

1 Trong năm thứ hai đời vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua thấy chiêm bao, thì trong lòng bối rối và mất giấc ngủ. 2 Vậy, vua truyền đòi các đồng bóng, thuật sĩ, thầy bói, và người Canh-đê để cắt nghĩa chiêm bao cho vua. Họ bèn đến chầu trước mặt vua. 3 Vua nói cùng họ rằng: Ta đã thấy một chiêm bao; và lòng ta bối rối, muốn biết chiêm bao đó. 4 Những người Canh-đê nói cùng vua bằng tiếng A-ram rằng: Tâu vua, chúc vua sống đời đời! Xin thuật chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ giải nghĩa.
5 Vua trả lời cho những người Canh-đê rằng: Sự ấy đã ra khỏi ta. Nếu các ngươi không nói cho ta biết chiêm bao đó thể nào và lời giải nó làm sao, thì các ngươi sẽ bị phân thây, nhà các ngươi sẽ trở nên đống phân. 6 Nhưng nếu các ngươi tỏ chiêm bao và lời giải nó cho ta, thì các ngươi sẽ được lễ vật, phần thưởng, và vinh hiển lớn từ nơi ta. Các ngươi hãy tỏ cho ta chiêm bao đó và lời giải nó thế nào. 7 Họ lại tâu lần thứ hai rằng: Xin vua kể chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ cắt nghĩa. 8 Vua rằng: Ta biết chắc các ngươi tìm cách để hoãn thì giờ, vì các ngươi thấy sự ấy đã ra khỏi ta. 9 Nhưng, nếu các ngươi không tỏ cho ta biết chiêm bao, thì cũng chỉ có một luật cho các ngươi; vì các ngươi đã điều đình với nhau đem những lời giả dối bậy bạ nói cùng ta, cho đến ngày giờ sẽ thay đổi. Vậy, hãy nói chiêm bao cho ta, và ta sẽ biết rằng các ngươi có thể giải nghĩa được. 10 Những người Canh-đê tâu lại cùng vua rằng: Chẳng có người nào trên đất nầy có thể tỏ ra việc của vua; vì chẳng có vua nào, chúa nào, người cai trị nào đem việc như thế hỏi đồng bóng, thuật sĩ, hay người Canh-đê nào. 11 Vì sự vua đòi là hiếm có, và không ai có thể tỏ cho vua được, chỉ có các vì thần không ở với loài xác thịt.
12 Vậy nên vua phát tức mình và giận dữ lắm, bèn truyền mạng lịnh giết chết hết những bác sĩ của Ba-by-lôn. 13 Vậy mạng lịnh đó đã truyền ra; người ta hầu đem giết hết thảy những bác sĩ, lại tìm Đa-ni-ên cùng đồng bạn người để giết. 14 Bấy giờ Đa-ni-ên lấy sự khôn ngoan tri thức mà nói với A-ri-ốc, quan thị vệ của vua, đã đi ra đặng giết những bác sĩ của Ba-by-lôn. 15 Người cất tiếng nói cùng A-ri-ốc, quan thị vệ của vua, rằng: Sao lại có mạng lịnh nghiêm cấp dường ấy ra từ vua? A-ri-ốc bèn kể chuyện cho Đa-ni-ên rõ. 16 Tức thì Đa-ni-ên vào, xin vua cho mình một hạn nữa, hầu có thể giải nghĩa điềm chiêm bao đó cho vua.
17 Đoạn, Đa-ni-ên trở về nhà, và tỏ sự ấy cho các bạn mình là Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. 18 Người xin họ cầu Đức Chúa Trời ở trên trời dủ lòng thương xót họ về sự kín nhiệm nầy, hầu cho Đa-ni-ên và đồng bạn mình khỏi phải chết với những bác sĩ khác của Ba-by-lôn.
19 Vậy sự kín nhiệm được tỏ ra cho Đa-ni-ên trong sự hiện thấy ban đêm; Đa-ni-ên bèn ngợi khen Chúa trên trời. 20 Đoạn, Đa-ni-ên cất tiếng nói rằng: Ngợi khen danh Đức Chúa Trời đời đời vô cùng! Vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài. 21 Chính Ngài thay đổi thì giờ và mùa, bỏ và lập các vua; ban sự khôn ngoan cho kẻ khôn ngoan, và sự thông biết cho kẻ tỏ sáng. 22 Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín nhiệm; Ngài biết những sự ở trong tối tăm, và sự sáng ở với Ngài. 23 Hỡi Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi! Tôi cảm ơn và ngợi khen Ngài, vì Ngài đã ban cho tôi sự khôn ngoan và quyền phép, và bây giờ Ngài đã khiến tôi biết điều chúng tôi cầu hỏi Ngài, mà tỏ cho chúng tôi biết việc của vua.
24 Vậy nên Đa-ni-ên đến nhà A-ri-ốc, là người vua đã truyền cho diệt những bác sĩ của Ba-by-lôn; và nói cùng người như vầy: Đừng diệt những bác sĩ của Ba-by-lôn; nhưng hãy đưa tôi vào trước mặt vua, thì tôi sẽ giải nghĩa điềm chiêm bao cho vua. 25 Bấy giờ A-ri-ốc vội vàng dẫn Đa-ni-ên đến trước mặt vua, và tâu cùng vua như vầy: Tôi đã tìm thấy một người trong những con cái Giu-đa bị bắt làm phu tù, người ấy sẽ cho vua biết sự giải nghĩa đó.
26 Vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên, mà người ta vẫn gọi là Bên-tơ-xát-sa, rằng: Quả thật rằng ngươi có thể tỏ cho ta biết điềm chiêm bao ta đã thấy, và lời giải nó chăng? 27 Đa-ni-ên ở trước mặt vua trả lời rằng: Sự kín nhiệm mà vua đã đòi, thì những bác sĩ, thuật sĩ, đồng bóng, thầy bói đều không có thể tỏ cho vua được. 28 Nhưng có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những điều kín nhiệm; và đã cho vua Nê-bu-cát-nết-sa biết điều sẽ tới trong những ngày sau rốt. Vậy, chiêm bao của vua và các sự hiện thấy của đầu vua đã thấy trên giường mình là như vầy:
29 Hỡi vua, khi vua nằm trên giường, có những tư tưởng về sự xảy đến sau nầy, thì Đấng hay tỏ sự kín nhiệm đã cho vua biết sự sẽ xảy đến. 30 Về phần tôi, sự kín nhiệm đó đã tỏ ra cho tôi, không phải vì tôi có sự khôn ngoan gì hơn người nào sống; nhưng để được giải nghĩa cho vua hiểu, và cho vua biết những ý tưởng trong lòng mình.
31 Hỡi vua, vua nhìn xem, và nầy, có một pho tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và rực rỡ lạ thường; đứng trước mặt vua, và hình dạng dữ tợn. 32 Đầu pho tượng nầy bằng vàng ròng; ngực và cánh tay bằng bạc; bụng và vế bằng đồng; 33 ống chân bằng sắt; và bàn chân thì một phần bằng sắt một phần bằng đất sét. 34 Vua nhìn pho tượng cho đến khi có một hòn đá chẳng phải bởi tay đục ra, đến đập vào bàn chân bằng sắt và đất sét của tượng, và làm cho tan nát. 35 Bấy giờ sắt, đất sét, đồng, bạc, và vàng đều cùng nhau tan nát cả; trở nên như rơm rác bay trên sân đạp lúa mùa hạ, phải gió đùa đi, chẳng tìm nơi nào cho chúng nó; nhưng hòn đã đập vào pho tượng thì hóa ra một hòn núi lớn và đầy khắp đất.
36 Đó là điềm chiêm bao. Bây giờ chúng tôi sẽ giải nghĩa ra trước mặt vua. 37 Hỡi vua, vua là vua các vua, vì Chúa trên trời đã ban nước, quyền, sức mạnh, và sự vinh hiển cho vua. 38 Ngài đã trao trong tay vua những con cái loài người, những thú đồng và chim trời, dầu chúng nó ở nơi nào, Ngài cũng đã làm cho vua được cai trị hết thảy; vậy vua là cái đầu bằng vàng. 39 Nhưng sau vua, sẽ dấy lên một nước khác, kém nước của vua; rồi một nước thứ ba, tức là đồng, sẽ cai quản khắp đất. 40 Lại có một nước thứ tư mạnh như sắt; vì sắt hay đập vỡ và bắt phục mọi vật, thì nước ấy cũng sẽ đập vỡ và nghiền nát như là sắt vậy. 41 Còn như vua đã thấy bàn chân và ngón chân nửa bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy là một nước sẽ phải phân chia ra; nhưng trong nước đó sẽ có sức mạnh của sắt, theo như vua đã thấy sắt lộn với đất sét. 42 Những ngón chân nửa sắt nửa đất sét, nước đó cũng nửa mạnh nửa giòn. 43 Vua đã thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng nó lộn nhau bởi giống loài người; song không dính cùng nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét. 44 Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho một dân tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời; 45 theo như vua đã xem thấy hòn đá đục ra từ núi, chẳng phải bởi tay, đã đập vỡ sắt, đồng, đất sét, bạc, và vàng. Đức Chúa Trời lớn đã cho vua biết sự sau nầy sẽ đến. Điềm chiêm bao nầy là thật, và lời giải nó là chắc chắn.
46 Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống, lạy Đa-ni-ên, và truyền dâng lễ vật cùng đồ thơm cho người. 47 Đoạn, vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời các ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, và là Chúa của các vua; chính Ngài là Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm, vì ngươi đã có thể tỏ ra sự kín nhiệm nầy. 48 Vua bèn tôn Đa-ni-ên lên sang trọng và ban cho người nhiều lễ vật trọng. Vua lập người cai trị cả tỉnh Ba-by-lôn, và làm đầu các quan cai những bác sĩ của Ba-by-lôn. 49 Đa-ni-ên cầu xin vua, thì vua lập Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô cùng cai trị tỉnh Ba-by-lôn, còn Đa-ni-ên thì chầu nơi cửa vua.

2

Tơlơi Pơtao Nebukhadnezzar Rơpơi

1Amăng thŭn tal dua kơ pơtao Nebukhadnezzar wai lăng, ñu hơmâo khul tơlơi rơpơi; tơlơi pơmĭn ñu rŭng răng biă mă laih anŭn ƀu thâo pĭt ôh. 2Tui anŭn, pơtao iâu ƀing pơsêh, ƀing pơjâo pơhưč, ƀing pơjâo pơăm laih anŭn ƀing pơjâo pơthâo rai kiăng ruai kơ ñu hơdôm tơlơi ñu hơmâo rơpơi laih. Tơdang ƀing gơñu mŭt rai dŏ dơ̆ng ƀơi anăp pơtao, 3pơtao laĭ kơ gơñu, “Kâo hơmâo rơpơi sa tơlơi rơpơi hăng pơrŭng pơrăng kâo laih anŭn kâo kiăng kơ thâo hơget tơlơi rơpơi anŭn kiăng laĭ.”
4Giŏng anŭn, ƀing thâo hluh khul tơlơi rơpơi anŭn laĭ glaĭ kơ pơtao amăng tơlơi pơhiăp Aramaik, “Ơ pơtao ăh, jing pô hơdip hlŏng lar! Ruai bĕ kơ ƀing ding kơna ih tơlơi rơpơi anŭn laih anŭn ƀing gơmơi či pŏk pơblang brơi kơ ih yơh.”
5Pơtao laĭ glaĭ kơ ƀing pơjâo pơthâo anŭn tui anai, “Anai jing tơlơi kâo hơmâo khưp ngă khŭt khăt laih: Tơdah ƀing gih ƀu ruai brơi ôh kơ kâo hơdôm tơlơi rơpơi kâo laih anŭn ƀu pŏk pơblang brơi ôh, kâo či khăt ƀing gih jing hĭ lu črăn laih anŭn khul sang gih jing hĭ khul ƀu̱r boh pơtâo glưh pơčah yơh. 6Samơ̆ tơdah ƀing gih ruai brơi kơ kâo laih anŭn pŏk pơblang brơi tơlơi rơpơi anŭn, ƀing gih či mă tŭ mơ̆ng kâo khul gơnam brơi pơyơr, gơnam bơni laih anŭn tơlơi pơyom prŏng. Tui anŭn, ruai bĕ kơ kâo tơlơi rơpơi anŭn laih anŭn pŏk pơblang brơi kơ kâo bĕ.”
7Samơ̆ ƀing gơñu laĭ glaĭ kơ pơtao dơ̆ng tui anai, “Ơ pơtao ăh, rơkâo kơ ih ruai brơi bĕ tơlơi rơpơi anŭn kơ ƀing ding kơna ih anai, tui anŭn, ƀing gơmơi či pŏk pơblang tơlơi rơpơi anŭn kơ ih yơh.”
8Giŏng anŭn, pơtao laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Sĭt kâo thâo laih, ƀing gih kơnơ̆ng kiăng kơ pơtrưĭ hrơi mông đôč, yuakơ ƀing gih thâo krăn anai yơh jing tơlơi kâo hơmâo khưp ngă khŭt khăt laih tui anai: 9Tơdah ƀing gih ƀu ruai brơi ôh kơ kâo tơlơi rơpơi kâo, kơnơ̆ng tơlơi pơkơhma̱l đôč yơh ƀing gih či tŭ. Ƀing gih hơmâo pơtŭ ư laih hăng tơdruă gih kiăng ruai brơi kơ kâo hơdôm tơlơi ƀu sĭt laih anŭn tơlơi sat ƀai, yuakơ ƀing gih čang rơmang kiăng kơ kâo pơplih hĭ. Tui anŭn, ruai kơ kâo bĕ tơlơi rơpơi anŭn laih anŭn kâo či thâo krăn ƀing gih yơh dưi pŏk pơblang tơlơi rơpơi anŭn kơ kâo.”
10Ƀing pơjâo pơthâo anŭn laĭ glaĭ kơ pơtao, “Ơ pơtao ăh, ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng lŏn tơnah anai dưi laĭ glaĭ kơ tơlơi ih tơña anŭn! Ƀu hơmâo pơtao pă ôh wơ̆t tơdah ƀing pơtao prŏng laih anŭn kơtang hloh či tơña kar hăng anŭn kơ ƀing pơsêh, pơjâo pơhưč laih anŭn kơ pô pơjâo pơthâo. 11Hơdôm tơlơi ih tơña anŭn jing tơnap biă mă. Ƀu hơmâo mơnuih hlơi pô ôh dưi pơrơđah brơi tơlơi rơpơi anŭn kơ pơtao, samơ̆ kơnơ̆ng ƀing yang đôč yơh dưi, laih anŭn ƀing gơñu ƀu hơdip amăng tŏng krah mơnuih mơnam ôh.”
12Tơlơi anŭn ngă kơ pơtao hil ƀrŭk laih anŭn pơiă hĭr hăr biă mă tơl ñu pơđar ƀing arăng pơdjai hĭ abih bang ƀing mơnuih rơgơi amăng čar Babilon. 13Tui anŭn, tơlơi pơđar anŭn pơtao hơmâo čih pơtă laih kiăng kơ pơdjai hĭ abih bang ƀing rơgơi, laih anŭn arăng ăt nao hơduah Daniêl wơ̆t hăng ƀing gơyut ñu kiăng kơ pơdjai hĭ.
14Tơdang Ariok, jing pô khua git gai ƀing gak pơtao, hơmâo tơbiă nao laih kiăng pơdjai hĭ abih ƀing mơnuih rơgơi amăng čar Babilon, Daniêl yua tơlơi rơgơi thâo hluh yơh pơhiăp hăng ñu. 15Daniêl tơña kơ pô khua anŭn tui anai, “Yua hơget pơtao čih pơtă sa tơlơi pơđar kơtang kơtĭt kar hăng anŭn lĕ?” Tui anŭn, Ariok pơblang hơdôm tơlơi anŭn kơ Daniêl yơh. 16Tơdang Daniêl hơmư̆ hơdôm tơlơi anŭn, ƀơi mông anŭn mơtam ñu nao bưp pơtao laih anŭn rơkâo pơtao kiăng kơ pơtrưĭ hrơi mông, tui anŭn ñu dưi pơblang brơi tơlơi rơpơi anŭn kơ pơtao yơh.
17Giŏng anŭn, Daniêl wơ̆t glaĭ kơ sang ñu laih anŭn ră ruai glaĭ hơdôm tơlơi anŭn kơ ƀing gơyut ñu Hananyah, Misael laih anŭn Azaryah. 18Ñu pơtrŭt ƀing gơ̆ kwưh rơkâo tơlơi pap mơ̆ng Ơi Adai pơ adai adih kơ tơlơi hơgŏm anai, tui anŭn ñu hăng ƀing gơyut ñu ƀu či djai hĭ ôh hrŏm hăng abih bang ƀing rơgơi amăng lŏn čar Babilon. 19Amăng mlam anŭn yơh Ơi Adai pơrơđah brơi tơlơi hơgŏm anŭn kơ Daniêl amăng tơlơi pơƀuh. Giŏng anŭn, Daniêl bơni hơơč kơ Ơi Adai pơ adai adih tui anai,
  20“Bơni hơơč kơ anăn Ơi Adai nanao hlŏng lar,
   yuakơ tơlơi rơgơi laih anŭn tơlơi dưi kơtang jing mơ̆ng Ñu yơh.
  21Ñu pơplih khul hrơi mông laih anŭn khul bơyan;
   Ñu pŭ̱ đĭ ƀing pơtao laih anŭn pơglưh hĭ ƀing pơtao.
  Ñu brơi tơlơi rơgơi kơ ƀing thâo pơmĭn
   laih anŭn tơlơi thâo hluh kơ ƀing thâo rơđah.
  22Ñu pơrơđah brơi hơdôm tơlơi dơlăm hơgŏm;
   Ñu thâo hơget tơlơi dŏ amăng tơlơi kơnăm mơmŏt,
   laih anŭn tơlơi bơngač dŏ hrŏm hăng Ñu yơh.
  23Kâo bơni hơơč kơ Ih, Ơ Ơi Adai kơ ƀing ơi adon kâo ăh:
   Ih hơmâo brơi laih kơ kâo tơlơi rơgơi laih anŭn tơlơi dưi kơtang,
   Ih hơmâo pơrơđah laih kơ kâo hơdôm tơlơi ƀing gơmơi rơkâo kơ Ih,
   laih anŭn Ih hơmâo brơi laih kơ ƀing gơmơi thâo tơlơi pơtao rơpơi.”

Daniêl Pơblang Tơlơi Rơpơi

24Giŏng anŭn, Daniêl nao bưp Ariok, jing pô khua pơtao hơmâo jao laih bruă kiăng kơ pơdjai hĭ abih bang ƀing mơnuih rơgơi amăng lŏn čar Babilon, laih anŭn Daniêl laĭ hăng ñu tui anai, “Rơkâo kơ ih anăm pơdjai hĭ ôh abih bang ƀing rơgơi amăng lŏn čar Babilon. Ba kâo nao kơ pơtao bĕ, laih anŭn kâo či pŏk pơblang brơi tơlơi rơpơi ñu kơ ñu yơh.”
25Ƀơi mông anŭn mơtam Ariok ba Daniêl nao kơ pơtao prŏng Nebukhadnezzar laih anŭn laĭ tui anai, “Ơ pơtao ăh, kâo hơmâo hơduah ƀuh laih sa čô amăng ƀing hlŭn mơnă mơ̆ng anih lŏn Yudah jing pô dưi pŏk pơblang brơi kơ ih hơdôm tơlơi rơpơi ih anŭn yơh.”
26Pơtao tơña kơ Daniêl, anăn ñu pơkŏn dơ̆ng jing Beltesazzar, tui anai, “Ih dưi mơ̆ ră ruai kơ kâo hơdôm tơlơi kâo ƀuh laih amăng tơlơi rơpơi kâo laih anŭn pŏk pơblang brơi?”
27Daniêl laĭ glaĭ tui anai, “Ơ pơtao prŏng ăh, ƀu hơmâo pô rơgơi, pô pơjâo pơhưč, pô pơsêh ƀôdah pô tơña hơduah mơ̆ng yang pă ôh dưi pŏk pơblang brơi kơ pơtao tơlơi hơgŏm ih hơmâo tơña anŭn, 28samơ̆ kơnơ̆ng hơmâo sa Ơi Adai amăng adai adih đôč yơh jing Pô dưi pơrơđah brơi khul tơlơi hơgŏm anai. Ñu hơmâo pơrơđah laih kơ ih, Ơ pơtao ăh, hơdôm tơlơi či truh amăng rơnŭk pơanăp. Tơlơi rơpơi hăng khul tơlơi pơƀuh ih hơmâo laih amăng tơlơi pơmĭn ih tơdang ih đih pĭt jing hơdôm tơlơi tui anai yơh:
29“Ơ pơtao ăh, tơdang ih hlak đih pĭt, ih rơpơi nao pơ khul tơlơi či truh pơanăp, laih anŭn Ơi Adai yơh jing Pô pơdah laih brơi kơ ih hơdôm tơlơi či truh. 30Bơ kơ kâo, tơlơi hơgŏm anai Ñu hơmâo pơdah laih kơ kâo, ƀu djơ̆ yuakơ kâo hơmâo tơlơi rơgơi prŏng hloh kơ ƀing mơnuih pơkŏn hlak hơdip ôh, samơ̆ tui anŭn yơh, Ơ pơtao ăh, ih dưi thâo tơlơi pơblang laih anŭn ih dưi thâo hluh hơget tơlơi hơmâo truh laih amăng tơlơi pơmĭn ih.
31“Anai nê, Ơ pơtao ăh, amăng tơlơi pơƀuh ih, hơmâo sa boh rup mơnuih rơhaih, prŏng, pơčrang bơngač laih anŭn kri̱p yi̱p biă mă yơh. 32Akŏ rup anŭn arăng pơkra hăng mah phŭn, tơda ñu laih anŭn hơpăl ñu hăng amrăk, kơiăng ñu hăng dua ƀĕ pha tơkai ñu hăng ko̱ng, 33khul tơkai ñu arăng pơkra hăng pơsơi, dua plă̱ tơkai ñu hăng pơsơi pơkle̱p hrŏm hăng lŏn kraĭ. 34Tơdang ih hlak dŏ lăng, hơmâo sa boh boh pơtâo tơglŏh tơbiă, samơ̆ ƀu djơ̆ yua mơ̆ng tơngan mơnuih mơnam ôh pơtơglŏh hĭ boh pơtâo anŭn. Boh pơtâo anŭn lê̆ klă̱ ƀơi plă̱ tơkai rup ngă hăng pơsơi pơkle̱p hrŏm hăng lŏn kraĭ anŭn pơčah hĭ brai yơh. 35Giŏng anŭn, pơsơi, lŏn kraĭ, ko̱ng, amrăk laih anŭn mah anŭn pơčah hĭ brai mơtam yơh, laih anŭn jing hĭ hrup hăng hơkam ƀơi anih prăh pơdai amăng bơyan phang yơh. Angĭn puh pơđuaĭ hĭ gơñu ƀu pioh glaĭ sa anih gru kơnăl pă ôh. Samơ̆ boh pơtâo lê̆ klă̱ trŭn ƀơi rup anŭn prŏng tui jing hĭ sa boh čư̆ prŏng laih anŭn go̱m hĭ djŏp djang lŏn tơnah yơh.
36“Anŭn yơh jing tơlơi rơpơi laih anŭn ră anai ƀing gơmơi či pŏk pơblang ñu brơi kơ ih yơh. 37Ơ pơtao ăh, ih jing pơtao kơ ƀing pơtao. Ơi Adai pơ adai adih hơmâo brơi laih kơ ih jing pơtao prŏng, hơmâo tơlơi dưi, tơlơi kơtang laih anŭn tơlơi kơdrưh kơang; 38amăng tơngan tơlơi dưi ih yơh Ñu hơmâo jao laih mơnuih mơnam, khul hlô mơnơ̆ng glai amăng đang hơma laih anŭn khul čim brĭm hăng adai. Pơpă anih djuai mơnơ̆ng hơdip, Ñu hơmâo pơjing brơi kơ ih yơh git gai abih bang gơñu. Ih yơh jing akŏ hăng mah anŭn.
39“Tơdơi kơ ih, či hơmâo dêh čar pơkŏn dơ̆ng tơgŭ rai, ƀu prŏng kơtang pơđơ̱r hăng ih ôh. Tŏ tui anŭn dơ̆ng, dêh čar tal klâo, jing črăn hăng ko̱ng, či git gai djŏp djang lŏn tơnah yơh. 40Hơnăl tuč, či hơmâo dêh čar tal pă̱ jing kơtang hrup hăng pơsơi yơh, yuakơ pơsơi pơjŏh hăng pơphač hĭ djŏp mơta. Dêh čar anai jing kar hăng pơsơi yơh pơrai pơsăn hĭ khul gơnam, ăt tui anŭn mơ̆n, dêh čar anai či pơsăn hăng pơjŏh hĭ abih bang dêh čar pơkŏn yơh. 41Ih ăt ƀuh mơ̆n khul plă̱ tơkai laih anŭn čơđe̱ng tơkai arăng pơkra hăng lŏn kraĭ pơkle̱p hăng pơsơi. Tui anŭn yơh, anŭn jing sa boh dêh čar hơmâo pơčơlah hĭ jing lu, samơ̆ dêh čar anŭn či hơmâo đơđa tơlơi kơtang mơ̆ng pơsơi amăng anŭn kar hăng ih hơmâo ƀuh laih pơsơi pơkle̱p hrŏm hăng lŏn kraĭ anŭn. 42Hrup hăng khul čơđe̱ng tơkai ngă hăng pơsơi laih anŭn hăng lŏn kraĭ, ăt tui anŭn mơ̆n, dêh čar anŭn či hơmâo sa črăn jing kơtang laih anŭn sa črăn jing amuñ rơhač hĭ. 43Laih anŭn kơnơ̆ng hrup hăng tơlơi ih ƀuh pơsơi pơkle̱p hrŏm hăng lŏn kraĭ anŭn yơh, ƀing ană plei amăng dêh čar anŭn ăt či pơdŏ lŭk lăk mơ̆n laih anŭn ƀu či thâo pơgop glaĭ ôh, kar hăng ih ƀuh kơ pơsơi pơkle̱p hrŏm hăng lŏn kraĭ anŭn mơ̆n.
44“Amăng rơnŭk ƀing pơtao anŭn, Ơi Adai pơ adai adih či rŭ̱ pơdơ̆ng đĭ sa boh dêh čar ƀu či răm rai hĭ ôh laih anŭn kŏn či lui raih hĭ lơi kơ ƀing mơnuih pơkŏn git gai dêh čar anŭn. Dêh čar anŭn či pơrai pơsăn hĭ abih bang dêh čar pơkŏn hăng pơđŭt hĭ abih yơh, samơ̆ dêh čar anŭn ăt či dŏ dơnơ̆ng hlŏng lar yơh. 45Anŭn yơh jing tơlơi kiăng laĭ kơ tơlơi pơƀuh ih kơ sa boh boh pơtâo tơglŏh tơbiă jing hĭ sa boh čư̆ prŏng samơ̆ ƀu djơ̆ yua mơ̆ng tơngan mơnuih mơnam ôh anŭn. Boh pơtâo anŭn yơh pơrai pơsăn hĭ pơsơi, ko̱ng, lŏn kraĭ, amrăk laih anŭn mah anŭn.
 “Ơi Adai prŏng prin hơmâo pơdah laih kơ ih hơdôm tơlơi či truh amăng tơlơi hơdip pơanăp. Sĭt kâo hơmâo ră ruai laih brơi kơ ih tơlơi rơpơi ih anŭn laih anŭn ăt pŏk pơblang brơi kơ ih mơ̆n.”

Pơtao Brơi Gơnam Bơni Kơ Daniêl

46Giŏng kơ Pơtao Nebukhadnezzar hơmư̆ hơdôm tơlơi anŭn, ñu bon kơkuh pơpŭ ƀơi anăp Daniêl laih anŭn brơi kơ gơ̆ tơlơi pơyom hăng pơđar arăng pơyơr sa gơnam pơyơr laih anŭn gơnam ƀâo mơngưi kơ gơ̆. 47Pơtao laĭ kơ Daniêl tui anai, “Sĭt yơh Ơi Adai ih jing Ơi Adai kơ abih bang ƀing yang rơba̱ng laih anŭn Khua Yang kơ abih ƀing pơtao, laih anŭn jing Pô pơrơđah tơbiă hơdôm tơlơi hơgŏm, yuakơ ih dưi pơrơđah laih hơdôm tơlơi hơgŏm amăng tơlơi rơpơi kâo anŭn.”
48Giŏng anŭn, pơtao brơi Daniêl jing khua mă bruă prŏng laih anŭn brơi lu gơnam brơi pơyơr kơ gơ̆. Ñu brơi gơ̆ git gai wai lăng abih bang amăng kwar Babilon laih anŭn ăt jing khua kơ abih bang ƀing mơnuih rơgơi mơ̆n. 49Hloh kơ anŭn dơ̆ng, hăng tơlơi Daniêl rơkâo kơ pơtao yơh, pơtao brơi kơ Sadrak, Mesak laih anŭn Abednêgô jing khua wai lăng abih bruă amăng kwar Babilon, tơdang anŭn, Daniêl pô ăt dŏ mă bruă amăng kuăl sang pơtao.