2

Phần lịch sử

(Từ đoạn 2 đến 6)

Đa-ni-ên giải chiêm bao của vua. – Sự hiện thấy về pho tượng

1 Trong năm thứ hai đời vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua thấy chiêm bao, thì trong lòng bối rối và mất giấc ngủ. 2 Vậy, vua truyền đòi các đồng bóng, thuật sĩ, thầy bói, và người Canh-đê để cắt nghĩa chiêm bao cho vua. Họ bèn đến chầu trước mặt vua. 3 Vua nói cùng họ rằng: Ta đã thấy một chiêm bao; và lòng ta bối rối, muốn biết chiêm bao đó. 4 Những người Canh-đê nói cùng vua bằng tiếng A-ram rằng: Tâu vua, chúc vua sống đời đời! Xin thuật chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ giải nghĩa.
5 Vua trả lời cho những người Canh-đê rằng: Sự ấy đã ra khỏi ta. Nếu các ngươi không nói cho ta biết chiêm bao đó thể nào và lời giải nó làm sao, thì các ngươi sẽ bị phân thây, nhà các ngươi sẽ trở nên đống phân. 6 Nhưng nếu các ngươi tỏ chiêm bao và lời giải nó cho ta, thì các ngươi sẽ được lễ vật, phần thưởng, và vinh hiển lớn từ nơi ta. Các ngươi hãy tỏ cho ta chiêm bao đó và lời giải nó thế nào. 7 Họ lại tâu lần thứ hai rằng: Xin vua kể chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ cắt nghĩa. 8 Vua rằng: Ta biết chắc các ngươi tìm cách để hoãn thì giờ, vì các ngươi thấy sự ấy đã ra khỏi ta. 9 Nhưng, nếu các ngươi không tỏ cho ta biết chiêm bao, thì cũng chỉ có một luật cho các ngươi; vì các ngươi đã điều đình với nhau đem những lời giả dối bậy bạ nói cùng ta, cho đến ngày giờ sẽ thay đổi. Vậy, hãy nói chiêm bao cho ta, và ta sẽ biết rằng các ngươi có thể giải nghĩa được. 10 Những người Canh-đê tâu lại cùng vua rằng: Chẳng có người nào trên đất nầy có thể tỏ ra việc của vua; vì chẳng có vua nào, chúa nào, người cai trị nào đem việc như thế hỏi đồng bóng, thuật sĩ, hay người Canh-đê nào. 11 Vì sự vua đòi là hiếm có, và không ai có thể tỏ cho vua được, chỉ có các vì thần không ở với loài xác thịt.
12 Vậy nên vua phát tức mình và giận dữ lắm, bèn truyền mạng lịnh giết chết hết những bác sĩ của Ba-by-lôn. 13 Vậy mạng lịnh đó đã truyền ra; người ta hầu đem giết hết thảy những bác sĩ, lại tìm Đa-ni-ên cùng đồng bạn người để giết. 14 Bấy giờ Đa-ni-ên lấy sự khôn ngoan tri thức mà nói với A-ri-ốc, quan thị vệ của vua, đã đi ra đặng giết những bác sĩ của Ba-by-lôn. 15 Người cất tiếng nói cùng A-ri-ốc, quan thị vệ của vua, rằng: Sao lại có mạng lịnh nghiêm cấp dường ấy ra từ vua? A-ri-ốc bèn kể chuyện cho Đa-ni-ên rõ. 16 Tức thì Đa-ni-ên vào, xin vua cho mình một hạn nữa, hầu có thể giải nghĩa điềm chiêm bao đó cho vua.
17 Đoạn, Đa-ni-ên trở về nhà, và tỏ sự ấy cho các bạn mình là Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. 18 Người xin họ cầu Đức Chúa Trời ở trên trời dủ lòng thương xót họ về sự kín nhiệm nầy, hầu cho Đa-ni-ên và đồng bạn mình khỏi phải chết với những bác sĩ khác của Ba-by-lôn.
19 Vậy sự kín nhiệm được tỏ ra cho Đa-ni-ên trong sự hiện thấy ban đêm; Đa-ni-ên bèn ngợi khen Chúa trên trời. 20 Đoạn, Đa-ni-ên cất tiếng nói rằng: Ngợi khen danh Đức Chúa Trời đời đời vô cùng! Vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài. 21 Chính Ngài thay đổi thì giờ và mùa, bỏ và lập các vua; ban sự khôn ngoan cho kẻ khôn ngoan, và sự thông biết cho kẻ tỏ sáng. 22 Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín nhiệm; Ngài biết những sự ở trong tối tăm, và sự sáng ở với Ngài. 23 Hỡi Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi! Tôi cảm ơn và ngợi khen Ngài, vì Ngài đã ban cho tôi sự khôn ngoan và quyền phép, và bây giờ Ngài đã khiến tôi biết điều chúng tôi cầu hỏi Ngài, mà tỏ cho chúng tôi biết việc của vua.
24 Vậy nên Đa-ni-ên đến nhà A-ri-ốc, là người vua đã truyền cho diệt những bác sĩ của Ba-by-lôn; và nói cùng người như vầy: Đừng diệt những bác sĩ của Ba-by-lôn; nhưng hãy đưa tôi vào trước mặt vua, thì tôi sẽ giải nghĩa điềm chiêm bao cho vua. 25 Bấy giờ A-ri-ốc vội vàng dẫn Đa-ni-ên đến trước mặt vua, và tâu cùng vua như vầy: Tôi đã tìm thấy một người trong những con cái Giu-đa bị bắt làm phu tù, người ấy sẽ cho vua biết sự giải nghĩa đó.
26 Vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên, mà người ta vẫn gọi là Bên-tơ-xát-sa, rằng: Quả thật rằng ngươi có thể tỏ cho ta biết điềm chiêm bao ta đã thấy, và lời giải nó chăng? 27 Đa-ni-ên ở trước mặt vua trả lời rằng: Sự kín nhiệm mà vua đã đòi, thì những bác sĩ, thuật sĩ, đồng bóng, thầy bói đều không có thể tỏ cho vua được. 28 Nhưng có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những điều kín nhiệm; và đã cho vua Nê-bu-cát-nết-sa biết điều sẽ tới trong những ngày sau rốt. Vậy, chiêm bao của vua và các sự hiện thấy của đầu vua đã thấy trên giường mình là như vầy:
29 Hỡi vua, khi vua nằm trên giường, có những tư tưởng về sự xảy đến sau nầy, thì Đấng hay tỏ sự kín nhiệm đã cho vua biết sự sẽ xảy đến. 30 Về phần tôi, sự kín nhiệm đó đã tỏ ra cho tôi, không phải vì tôi có sự khôn ngoan gì hơn người nào sống; nhưng để được giải nghĩa cho vua hiểu, và cho vua biết những ý tưởng trong lòng mình.
31 Hỡi vua, vua nhìn xem, và nầy, có một pho tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và rực rỡ lạ thường; đứng trước mặt vua, và hình dạng dữ tợn. 32 Đầu pho tượng nầy bằng vàng ròng; ngực và cánh tay bằng bạc; bụng và vế bằng đồng; 33 ống chân bằng sắt; và bàn chân thì một phần bằng sắt một phần bằng đất sét. 34 Vua nhìn pho tượng cho đến khi có một hòn đá chẳng phải bởi tay đục ra, đến đập vào bàn chân bằng sắt và đất sét của tượng, và làm cho tan nát. 35 Bấy giờ sắt, đất sét, đồng, bạc, và vàng đều cùng nhau tan nát cả; trở nên như rơm rác bay trên sân đạp lúa mùa hạ, phải gió đùa đi, chẳng tìm nơi nào cho chúng nó; nhưng hòn đã đập vào pho tượng thì hóa ra một hòn núi lớn và đầy khắp đất.
36 Đó là điềm chiêm bao. Bây giờ chúng tôi sẽ giải nghĩa ra trước mặt vua. 37 Hỡi vua, vua là vua các vua, vì Chúa trên trời đã ban nước, quyền, sức mạnh, và sự vinh hiển cho vua. 38 Ngài đã trao trong tay vua những con cái loài người, những thú đồng và chim trời, dầu chúng nó ở nơi nào, Ngài cũng đã làm cho vua được cai trị hết thảy; vậy vua là cái đầu bằng vàng. 39 Nhưng sau vua, sẽ dấy lên một nước khác, kém nước của vua; rồi một nước thứ ba, tức là đồng, sẽ cai quản khắp đất. 40 Lại có một nước thứ tư mạnh như sắt; vì sắt hay đập vỡ và bắt phục mọi vật, thì nước ấy cũng sẽ đập vỡ và nghiền nát như là sắt vậy. 41 Còn như vua đã thấy bàn chân và ngón chân nửa bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy là một nước sẽ phải phân chia ra; nhưng trong nước đó sẽ có sức mạnh của sắt, theo như vua đã thấy sắt lộn với đất sét. 42 Những ngón chân nửa sắt nửa đất sét, nước đó cũng nửa mạnh nửa giòn. 43 Vua đã thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng nó lộn nhau bởi giống loài người; song không dính cùng nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét. 44 Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho một dân tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời; 45 theo như vua đã xem thấy hòn đá đục ra từ núi, chẳng phải bởi tay, đã đập vỡ sắt, đồng, đất sét, bạc, và vàng. Đức Chúa Trời lớn đã cho vua biết sự sau nầy sẽ đến. Điềm chiêm bao nầy là thật, và lời giải nó là chắc chắn.
46 Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống, lạy Đa-ni-ên, và truyền dâng lễ vật cùng đồ thơm cho người. 47 Đoạn, vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời các ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, và là Chúa của các vua; chính Ngài là Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm, vì ngươi đã có thể tỏ ra sự kín nhiệm nầy. 48 Vua bèn tôn Đa-ni-ên lên sang trọng và ban cho người nhiều lễ vật trọng. Vua lập người cai trị cả tỉnh Ba-by-lôn, và làm đầu các quan cai những bác sĩ của Ba-by-lôn. 49 Đa-ni-ên cầu xin vua, thì vua lập Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô cùng cai trị tỉnh Ba-by-lôn, còn Đa-ni-ên thì chầu nơi cửa vua.

2

Nabũ-canêt-sa Rláu Mpáu Trỗ Muoi

1Toâq Nabũ-canêt-sa khoiq cỡt puo bữn bar cumo chơ, án mpáu muoi ramứh. Ŏ́c rláu mpáu nâi táq yỗn án cỡt sarốh sarnớm, bếq tỡ langêt. 2Yuaq ngkíq, án ớn máh cũai mo mumưl, mo mantaih, cớp mo parnân yỗn toâq atỡng tễ ŏ́c án mpáu. Bo alới toâq pỡ án, 3án pai chóq alới neq: “Cứq sâng sarốh sarnớm cỗ tễ parnáu mpáu tỡ o ki. Cứq yoc ễ dáng tễ parnáu ki la ŏ́c ntrớu.”
4Alới ta‑ỡi án toâq parnai Aram neq: “Puo hếq ơi! Sễq yỗn puo hếq ỡt cóng tamoong mantái níc! Sễq anhia sarŏh máh parnáu anhia mpáu yỗn hếq tamứng, chơ hếq têq aloŏh ŏ́c tễ parnáu ki yỗn anhia dáng.”
5Ma puo atỡng alới neq: “Cứq khoiq chanchớm yoc ễ táq neq: Khân anhia ma tỡ têq atỡng loah máh ŏ́c cứq mpáu cớp aloŏh ngê tễ parnáu ki, ki cứq cŏ́h tỗ anhia yỗn cỡt bar béq cớp talốh máh dống anhia yỗn cỡt ralốh-ralái. 6Ma khân anhia têq atỡng yỗn cứq dáng raloaih tễ parnáu nâi, ki cứq yỗn anhia bữn cóng cớp achỗn chớc anhia hỡ. Yuaq ngkíq, cóq anhia atỡng tễ parnáu ki voai, chơ aloŏh yỗn cứq dáng raloaih tễ ngê ki!”
7Alới ta‑ỡi puo neq: “Khân anhia sarŏh parnáu anhia mpáu yỗn hếq dáng, ki hếq têq aloŏh ngê tễ parnáu mpáu ki.”
8Toâq puo sâng santoiq ki, án pai neq: “Cứq dáng samoât lứq anhia chuaq rana ễ payũt ễq yỗn cro, yuaq anhia dáng cứq ễ 9yỗn anhia roap tôt, khân anhia tỡ bữn atỡng parnáu ki yỗn cứq dáng. Tỗp anhia yoc ễ phếq cứq, acoan ễq máh ramứh nâi cỡt ralêq. Cóq anhia ruaih loah parnáu ki yỗn cứq tamứng chim; chơ cứq noap anhia têq aloŏh ngê tễ parnáu ki.”
10Tỗp cũai mo ki ta‑ỡi loah neq: “Tỡ bữn noau mŏ tâng cốc cutễq nâi têq atỡng yỗn anhia dáng nheq máh ŏ́c anhia yoc ễ dáng. Cớp tỡ bữn puo aléq, tam án la sốt lứq, ma blớh ariang nneq chóq tỗp mo mumưl, mo parnân, cớp mo mantaih. 11Ŏ́c anhia blớh ki coat lứq. Tỡ bữn noau têq ta‑ỡi anhia mŏ; ống máh yiang toâp têq táq ŏ́c ki, cớp alới tỡ bữn ỡt mpứng dĩ cũai.”
12Cỗ tễ santoiq ki, puo sâng cutâu mứt lứq. Chơ án ớn noau cachĩt nheq máh cũai rangoaiq ca puo dốq sarhống tâng cruang Ba-bulôn. 13Ngkíq, puo aloŏh phễp rit yỗn cachĩt nheq tỗp alới, dếh Daniel cớp yớu án hỡ.

Yiang Sursĩ Atỡng Yỗn Daniel Dáng Ŏ́c Puo Mpáu

14Toâq ki Daniel pỡq ramóh Ariac, cũai sốt máh tahan kĩaq puo; Ariac la cũai roap mpỗl yỗn pỡq cachĩt cũai ki. Daniel táq ntỡng laviei lứq 15cớp blớh Ariac neq: “Cỗ nŏ́q puo ma aloŏh phễp rit ntâng lứq nâi?”
 Ngkíq Ariac atỡng yỗn Daniel dáng tễ máh ranáq khoiq cỡt.
16Chơ Daniel pỡq toâp ramóh puo, cớp sễq án atỡi loah máh tangái ễ cachĩt alới, dŏq án bữn atỡng tễ ngê ŏ́c láu mpáu yỗn puo dáng. 17Chơ Daniel píh chu loah pỡ dống án, cớp atỡng tễ máh ranáq ki yỗn yớu án Ha-nania, Mi-sel, cớp A-saria dáng tê. 18Án ớn yớu án câu sễq tễ Yiang Sursĩ ca ỡt tâng paloŏng yỗn sarũiq táq nứng, cớp sễq Yiang Sursĩ atỡng raloaih tễ ŏ́c cartooq ki yỗn alới dáng. Ngkíq nŏ́q noau tỡ bữn cachĩt alới parnơi cớp cũai canŏ́h ca puo dốq sarhống tâng cruang Ba-bulôn. 19Tâng sadâu ki Yiang Sursĩ sapáh yỗn Daniel dáng tễ ŏ́c cartooq ki, cớp án khễn Yiang Sursĩ tâng paloŏng neq:

  20“Yiang Sursĩ la roan rangoaiq cớp bữn chớc toâr lứq!
   Sễq khễn Yiang Sursĩ tái-mantái níc!
  21Yiang Sursĩ cỡt sốt máh tangái sadâu cớp catữ;
   án toâp chóh puo cớp alíh puo asễng;
   lứq Yiang Sursĩ toâp yỗn cũai bữn ŏ́c roan rangoaiq cớp ŏ́c dáng raloaih.
  22Yiang Sursĩ tỗr aloŏh dũ ŏ́c cartooq,
   cớp án dáng dũ ŏ́c cutooq noau dŏq tâng ntốq canám;
   poang tráh ỡt lavíng mpễr Yiang Sursĩ.
  23Ơ Yiang Sursĩ máh achúc achiac cứq sang ơi!
   Sễq khễn cớp yám noap anhia.
  Anhia khoiq yỗn cứq bữn ŏ́c roan rangoaiq cớp bán rêng;
   anhia khoiq ta‑ỡi máh ŏ́c cứq câu sễq, dŏq cứq têq ta‑ỡi loah puo.”

Daniel Atỡng Tễ Parnáu Puo Rláu Mpáu

24Ngkíq Daniel mut ramóh Ariac, án ca puo ớn pỡq cachĩt máh cũai puo dốq sarhống. Daniel pai neq: “Sễq anhia chỗi cachĩt máh cũai táq ranáq sarhống nâi. Sễq anhia dững cứq pỡq ramóh puo voai. Chơ cứq ễ atỡng yỗn puo dáng tễ ŏ́c án rláu mpáu.”
25Chơ Ariac dững toâp Daniel pỡq ramóh puo Nabũ-canêt-sa cớp atỡng neq: “Hếq khoiq ramóh manoaq tễ tỗp cũai noau cỗp tễ cruang Yuda; án têq atỡng ŏ́c tễ parnáu puo mpáu.”
26Puo pai chóq Daniel (án bữn ramứh Bel-tasat-sar hỡ) neq: “Mới têq atỡng ŏ́c cứq rláu mpáu cớp aloŏh ngê tễ parnáu ki tỡ?”
27Daniel ta‑ỡi neq: “Cucốh puo ơi! Lứq tỡ bữn mo mumưl, mo parnân, mo mantaih, tỡ la mo canŏ́h ma têq atỡng anhia máh ŏ́c cartooq nâi. 28Ma bữn ống Yiang Sursĩ tâng paloŏng toâp têq apáh máh ŏ́c yarũ nâi. Yiang Sursĩ atỡng yỗn puo dáng tễ máh ranáq ễ toâq chumát. Sanua hếq sễq atỡng ŏ́c mpáu cớp máh ŏ́c sapáh anhia khoiq hữm bo anhia bếq.
29“Bo anhia bếq, anhia mpáu tễ ranáq ễ toâq chumát; Yiang Sursĩ, án ca sapáh ŏ́c cutooq, án yoc ễ atỡng anhia dáng tễ máh ranáq ễ cỡt. 30Ŏ́c yarũ nâi, Yiang Sursĩ khoiq apáh yỗn hếq dáng, tỡ bữn cỗ hếq rangoaiq clữi tễ cũai canŏ́h, ma cỗ án yoc anhia dáng tễ ŏ́c anhia mpáu, cớp yoc anhia dáng tễ ŏ́c anhia ỡt chanchớm.
31“Cucốh puo ơi, ŏ́c anhia mpáu ki la neq: Anhia bữn hữm rup toâr lứq ca noau ayứng yáng moat anhia; rup nâi ang‑ữr, ma toâq hái nhêng o ễ ngcŏh. 32Plỡ rup nâi noau táq toâq yễng muoi chít; apơm cớp ngcŏ́ng noau táq toâq práq; ma púng cớp nlu noau táq toâq sapoan; 33nluang noau táq toâq tac; ayững noau táq carchốc tac cớp cutễq dieuq. 34Bo anhia ỡt tapoang nhêng, bữn muoi tamáu côl toâr ralíh asễng tễ crang cóh, mŏ tỡ bữn cũai aléq tatũih án. Tamáu nâi satooh pĩeiq tâng ayững tac cớp cutễq dieuq ki, cớp táq yỗn ayững ki cỡt tacoaih pruon nheq. 35Bo ki toâp máh ntốq táq toâq tac, cutễq dieuq, sapoan, práq, cớp yễng cỡt dưoiq sanŏ́q lamŏ́c tâng catữ noau púh saro. Cuyal phát dững nheq máh ramứh ki, tỡ bữn khlâiq ntrớu noâng. Ma tamáu côl ki cỡt toâr la‑ữt toau tadát nheq cốc cutễq nâi.
36“Nâi la máh ŏ́c anhia mpáu. Ma sanua hếq sễq aloŏh ngê yỗn anhia dáng tễ parnáu anhia rláu mpáu ki. 37Cucốh puo ơi, anhia la puo sốt toâr clữi nheq tễ máh puo canŏ́h. Yiang Sursĩ ca ỡt tâng paloŏng chóh anhia yỗn cỡt puo sốt toâr, bữn chớc toâr lứq, bữn bán rêng, cớp yỗn máh cũai yám noap anhia. 38Yiang Sursĩ chóh anhia yỗn cỡt sốt máh cũai cớp charán, dếh máh chớm pâr tâng cốc cutễq nâi. Plỡ yễng, ki sacâm tễ anhia toâp. 39Vớt tễ cruang anhia, bữn muoi cruang ễn; cruang ki cacớt hỡn tễ cruang anhia; chơ ntun ki, bữn cruang pái ễn cỡt cruang sapoan, ma án bữn chớc ndỡm nheq cốc cutễq nâi. 40Chơ bữn cruang pỗn ễn cỡt cruang rêng lứq sanŏ́q tac, têq án táq yỗn dũ ramứh tacoaih cớp dưoiq. Cruang nâi ễ pỡq chíl máh cruang canŏ́h yỗn cỡt rúng ralốh nheq. 41Anhia khoiq hữm ayững cớp ndễm ayững noau táq toâq tac carchốc cớp cutễq tabát. Ŏ́c nâi cỡt tếc yỗn anhia dáng, chumát cruang nâi caryoah cỡt bar tỗp. Án coang bĩq cỗ tễ tac, ma án lamên bĩq cỗ tễ cutễq tabát. 42Ndễm ayững muoi béq ki tac, ma muoi béq ễn ki cutễq tabát; ngkíq, chumát tâng cruang nâi bữn muoi tỗp bán rêng, ma muoi tỗp ễn cỡt ieuq. 43Anhia khoiq hữm chơ tễ tac carchốc cớp cutễq tabát. Ŏ́c nâi cỡt tếc atỡng tễ máh cũai sốt tâng cruang ki; chumát alới ễ cỡt ratoi loah. Ngkíq, alới ễ táq sễm ai na racoâiq ra‑ĩt. Ma alới tỡ têq táq ngkíq, ĩn tac tỡ têq ramóh cớp cutễq tabát. 44Nỡ‑ra, tữ toâq dỡi puo ki, Yiang Sursĩ ca ỡt tâng paloŏng ễ tễng muoi cruang tỡ nai cỡt pứt. Cruang ki tỡ bữn noau têq chíl yỗn cỡt pê; ma cruang ki ễ talốh máh cruang canŏ́h yỗn cỡt rúng nheq; chơ cruang ki bữn ỡt mantái níc. 45Cớp anhia khoiq hữm muoi tamáu côl toâr ki, án chống ễ ralíh asễng tễ crang cóh ma tỡ bữn noau tatũih án; tamáu côl ki satooh pĩeiq tâng rup tac, sapoan, cutễq tabát, práq, cớp yễng. Ŏ́c nâi Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq ễ atỡng yỗn anhia dáng tễ máh ranáq ễ toâq chumát. Hếq khoiq atỡng anhia pĩeiq lứq tễ máh ŏ́c anhia rláu mpáu, cớp aloŏh ngê tễ ŏ́c anhia mpáu ki, dŏq anhia têq dáng raloaih lứq.”

Puo Yỗn Cóng Daniel

46Chơ puo Nabũ-canêt-sa ap muoi tatứp tâng cutễq, cớp ớn noau dững máh crơng sang cớp crơng phuom chiau yỗn Daniel. 47Cớp án pai neq: “Yiang Sursĩ mới la Yiang sốt toâr clữi nheq tễ máh yiang canŏ́h; án la Ncháu ca sốt clữi nheq tễ máh puo, cớp án apáh máh ŏ́c cartooq. Cứq bữn dáng tễ ŏ́c nâi, la cỗ mới têq atỡng tễ dũ ŏ́c máh ŏ́c cartooq nâi.”
48Chơ puo chiau chớc toâr lứq yỗn Daniel, cớp yỗn crơng mpon o lứq hỡ pỡ án, cớp chóh án yỗn cỡt sốt cruang Ba-bulôn, dếh cỡt sốt máh cũai puo dốq sarhống hỡ. 49Táq puai máh santoiq Daniel sễq, puo chóh Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô yỗn cỡt sốt pưn Daniel tâng cruang Ba-bulôn. Ma Daniel, ki án noâng ỡt tâng dống puo.