4

Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền phải ngợi khen Đức Chúa Trời Rất Cao. – Cây lớn. Đa-ni-ên giải chiêm bao cho vua

1 Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng, ở trên khắp đất, rằng: Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên! 2 Ta lấy làm tốt lành mà rao cho các ngươi những dấu lạ và sự lạ mà Đức Chúa Trời Rất Cao đã làm ra đối với ta. 3 Ôi! Những dấu lạ của Ngài lớn lao là dường nào! Những sự lạ của Ngài mạnh sức là dường nào! Nước Ngài là nước còn mãi mãi, và quyền thế Ngài từ đời nọ đến đời kia.
4 Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ở yên lặng trong cung ta, và thạnh vượng trong đền ta. 5 Ta thấy một điềm chiêm bao làm cho ta sợ sệt; những ý tưởng của ta ở trên giường, và những sự hiện thấy của đầu ta làm cho ta bối rối. 6 Vậy ta truyền chiếu chỉ, đem hết thảy những bác sĩ của Ba-by-lôn đến trước mặt ta, hầu cho họ giải nghĩa điềm chiêm bao cho ta. 7 Bấy giờ, những đồng bóng, thuật sĩ, người Canh-đê và thầy bói đều đến, ta kể điềm chiêm bao trước mặt họ, nhưng họ không giải nghĩa cho ta. 8 Sau hết, có Đa-ni-ên, gọi là Bên-tơ-xát-sa theo tên thần của ta, người được linh của các thần thánh cảm động, thì đến ra mắt ta. Ta kể chiêm bao ta cho người mà rằng: 9 Hỡi Bên-tơ-xát-sa, người làm đầu các thuật sĩ, bởi ta biết rằng linh của các thần thánh ở trong ngươi, và không có một điều kín nhiệm nào là khó cho ngươi, vậy hãy bảo cho ta những sự hiện thấy trong chiêm bao ta đã thấy, và hãy giải nghĩa.
10 Nầy là những sự hiện thấy đã tỏ ra trong đầu ta khi ta nằm trên giường: Ta nhìn xem, và nầy, ở giữa đất có một cây cao lạ thường. 11 Cây đó lớn lên và trở nên cứng mạnh; ngọn nó chấm đến trời, và ở nơi cuối cùng khắp đất đều xem thấy nó. 12 Lá nó thì đẹp và trái thì sai, có đủ cho mọi loài ăn; các thú đồng núp dưới bóng nó; chim trời ở trên nhành nó, và mọi loài xác thịt nhờ nó mà nuôi mình.
13 Ta nhìn xem những sự hiện thấy trong đầu ta, khi ta nằm trên giường, và nầy, có một đấng thánh canh giữ từ trên trời xuống. 14 Người kêu lớn tiếng và nói rằng: Hãy đốn cây và chặt nhành nó; hãy làm rụng lá và vãi trái nó ra; hãy cho thú vật tránh khỏi dưới nó, và chim chóc khỏi nhành nó! 15 Dầu vậy, hãy để lại gốc của rễ nó trong đất, mà cột nó bằng một dây xích sắt và đồng, nơi giữa cỏ xanh trong đồng ruộng; cho nó bị sương trên trời thấm ướt; và cho người cùng các loài thú chia phần cỏ dưới đất! 16 Cho lòng người bị đổi đi, và người được ban cho lòng thú; và trải qua bảy kỳ trên người. 17 Án đó là bởi các đấng canh giữ đã định, và lời các thánh đã truyền, hầu cho những kẻ sống biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người; Ngài muốn ban cho ai tùy ý, và lập kẻ rất hèn hạ trong loài người lên đó. 18 Ta đây là vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã thấy điềm chiêm bao ấy. Vậy, hỡi Bên-tơ-xát-sa, ngươi hãy giải nghĩa cho ta, vì hết thảy bác sĩ trong nước ta không có thể giải nghĩa cho ta được; nhưng ngươi giải được, vì linh của các thần thánh ở trong ngươi.
19 Bấy giờ Đa-ni-ên, gọi tên là Bên-tơ-xát-sa, bị câm trong giây lâu, và những ý tưởng làm cho người bối rối. Vua lại cất tiếng nói rằng: Hỡi Bên-tơ-xát-sa, đừng cho điềm chiêm bao và sự giải nghĩa làm rối ngươi. Bên-tơ-xát-sa nói rằng: Thưa chúa, nguyền cho điềm chiêm bao đến cho những kẻ ghét chúa và sự giải nghĩa cho kẻ thù nghịch chúa! 20 Cây mà vua đã thấy, trở nên lớn và mạnh, ngọn chấm đến trời, và khắp đất đều xem thấy, 21 lá thì đẹp và trái thì sai, có đủ cho mọi loài ăn, các thú đồng ở dưới bóng nó, các loài chim trời làm ổ trên nhành nó, 22 hỡi vua, ấy là chính mình vua, vua đã trở nên lớn và mạnh, sự cao cả của vua tăng thêm và thấu đến trời, quyền thế vua đến đầu cùng đất.
23 Song đến điều vua thấy một đấng thánh canh giữ từ trời mà xuống, và nói rằng: Hãy đốn cây và hủy phá đi; song, hãy để lại gốc của rễ nó trong đất, rồi hãy buộc nó bằng một dây xích sắt và đồng ở giữa đám cỏ xanh trong đồng ruộng, cho nó bị nhuần thấm bởi sương móc trên trời; và cho người có phần với các thú đồng, cho đến khi đã trải qua trên người bảy kỳ. 24 Hỡi vua, nầy là lời giải, và nầy là mạng định của Đấng Rất Cao, đã đến trên vua, chúa tôi: 25 Người ta sẽ đuổi vua ra khỏi giữa loài người, và chỗ ở vua sẽ ở giữa những thú vật trong đồng. Vua sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, và sẽ được thấm nhuần sương móc trên trời; bảy kỳ sẽ trải qua trên vua, cho đến khi vua nhận biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý. 26 Còn như đã truyền rằng chừa lại gốc của rễ cây đó, tức là khi nào vua đã nhận biết các từng trời cầm quyền, thì nước vua chắc sẽ thuộc về vua. 27 Vậy nên, hỡi vua, xin hãy nghe lời tôi khuyên vua: hãy lấy sự công bình mà chuộc tội lỗi, hãy thương xót những kẻ nghèo khó để chuộc những điều gian ác mình. Như vậy sự bình an vua còn có thể lâu dài hơn nữa.
28 Hết thảy những sự đó đều đến cho vua Nê-bu-cát-nết-sa. 29 Khi khỏi mười hai tháng, vua đi dạo trong hoàng cung Ba-by-lôn, 30 thì cất tiếng mà nói rằng: Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao? 31 Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời xuống rằng: Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa khỏi ngươi. 32 Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý. 33 Trong chính giờ đó, lời nói ấy đã ứng nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như bò; thân thể vua phải thấm nhuần sương móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì giống như móng loài chim chóc.
34 Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời, trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền còn mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ đến đời kia. 35 Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?
36 Trong lúc đó, trí khôn phục lại cho ta, ta lại được sự vinh hiển của ngôi nước ta, sự oai nghi chói sáng trở lại cho ta; những nghị viên và đại thần ta lại chầu ta. Ta lại được lập lên trên ngôi nước, và sự uy nghi quyền thế ta càng thêm.
37 Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tôn vinh, và làm cả sáng Vua trên trời; mọi công việc Ngài đều chân thật, các đường lối Ngài đều công bình; và kẻ nào bước đi kiêu ngạo, Ngài có thể hạ nó xuống.

4

Tơlơi Nebukhadnezzar Rơpơi Kơ Sa Phŭn Kơyâo

1Pơtao Nebukhadnezzar mơit tơlơi pơhiăp gah yŭ anai kơ abih bang ƀing mơnuih, ƀing kơnung djuai laih anŭn mơnuih mơnam hơmâo tơlơi pơhiăp phara phara, jing ƀing hơdip amăng djŏp djang lŏn tơnah:
Kwưh kiăng kơ ƀing gih đĭ kơyar bă blai!
2Anai jing hiam yơh kơ kâo kiăng ră ruai kơ ƀing gih khul gru kơnăl tơlơi mơsêh mơyang laih anŭn tơlơi mơyang yom pơphan Ơi Adai Glông Hloh hơmâo ngă brơi laih kơ kâo.
  3Yom pơphan biă mă yơh khul gru kơnăl Ñu,
   yom pơphan biă mă yơh khul tơlơi mơyang Ñu!
  Dêh čar Ñu jing sa dêh čar hlŏng lar;
   tơlơi dưi git gai Ñu ăt dŏ nanao amăng abih rơnŭk.
4Kâo yơh, pơtao Nebukhadnezzar, dŏ pơ sang pơtao kâo, mơak mơai laih anŭn đĭ kơyar. 5Samơ̆ kâo hơmâo sa tơlơi rơpơi ngă brơi kâo huĭ hyưt biă mă. Tơdang kâo hlak đih pĭt amăng sưng kâo, khul rup laih anŭn khul tơlơi pơƀuh truh nao pơ tơlơi pơmĭn kâo hăng pơhuĭ hĭ kâo. 6Tui anŭn, kâo pơkiaŏ brơi arăng iâu abih bang ƀing rơgơi amăng čar Babilon rai pơ anăp kâo kiăng kơ pŏk pơblang brơi tơlơi rơpơi anŭn kơ kâo. 7Tơdang ƀing pơsêh, ƀing pơjâo pơhưč, ƀing pơjâo pơthâo laih anŭn ƀing tơña kwưh kơ yang rai, kâo ruai kơ ƀing gơñu kơ tơlơi rơpơi anŭn, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi pŏk pơblang brơi kơ kâo ôh. 8Hơnăl tuč, Daniêl yơh jing pô kâo pơanăn ñu Beltesazzar tui hăng anăn yang kâo laih anŭn hơmâo yang bơngăt ƀing yang rơgoh hiam dŏ hrŏm hăng ñu; ñu rai ƀơi anăp kâo laih anŭn kâo ruai kơ ñu tơlơi rơpơi anŭn.
9Kâo laĭ tui anai, “Ơ Beltesazzar, khua kơ ƀing pơsêh, kâo thâo yang bơngăt ƀing yang rơgoh hiam dŏ hrŏm hăng ih laih anŭn ƀu hơmâo tơlơi hơgŏm hơget ôh jing tơnap đơi kơ ih. Anai yơh jing tơlơi rơpơi kâo. Tui anŭn, pŏk pơblang ñu bĕ brơi kơ kâo. 10Khul tơlơi kâo pơƀuh tơdang kâo hlak đih pĭt amăng sưng kâo tui anai: Kâo lăng, laih anŭn ƀơi anăp kâo hơmâo sa ƀĕ phŭn kơyâo dŏ dơ̆ng ƀơi tŏng krah lŏn tơnah laih anŭn glông biă mă. 11Kơyâo anai čă đĭ prŏng laih anŭn kơtang, laih anŭn rơdŭ ñu sŏ̱ adai yơh, tơl mơnuih mơnam mơ̆ng djŏp djang anih amăng lŏn tơnah ăt dưi ƀuh ñu mơ̆n. 12Khul hla ñu jing hiam rô̆, boh čroh ñu lu biă mă, jing gơnam ƀơ̆ng djŏp kơ abih lŏn tơnah yơh. Gah yŭ kơ kơyâo anŭn hơmâo tơui kơ tơpul hlô mơnơ̆ng glai dŏ pơdơi laih anŭn khul čim brĭm hơdip ngă hruh amăng khul than kơyâo anŭn. Mơ̆ng kơyâo anŭn yơh rĭm djuai mơnơ̆ng dưi hơmâo gơnam ƀơ̆ng.
13“Amăng hơdôm tơlơi pơƀuh anŭn tơdang kâo hlak đih amăng sưng kâo, kâo lăng ƀuh ƀơi anăp kâo hơmâo sa čô ding kơna, jing pô rơgoh hiam, trŭn rai mơ̆ng adai adih. 14Ñu pơhiăp kraih tui anai, ‘Dro̱m bĕ kơyâo anŭn, tơluăh hĭ bĕ khul than ñu laih anŭn hroč hĭ bĕ khul hla ñu, giŏng anŭn sai rai hyu bĕ khul boh čroh ñu. Brơi khul hlô mơnơ̆ng mơ̆ng gah yŭ tơui ñu tơlŭh đuaĭ kơdŏp hĭ bĕ laih anŭn brơi khul čim mơ̆ng khul than ñu pŏr đuaĭ hĭ bĕ. 15Samơ̆ pioh glaĭ bĕ tơpơ̆ng phŭn ñu hăng akha ñu anŭn, akă hĭ bĕ hăng hrĕ pơsơi hăng ko̱ng, laih anŭn lui raih hĭ bĕ phŭn anŭn amăng đang hơma hơmâo rơ̆k.
“ ‘Brơi bĕ mơnuih anŭn hra̱m mơsăh hăng ia ngo̱m adai laih anŭn brơi bĕ ñu hơdip hrŏm hăng khul hlô mơnơ̆ng amăng kơyâo pơtâo ƀơi lŏn tơnah anai.
16Brơi bĕ kơ tơlơi pơmĭn ñu pơplih jing hĭ tơlơi pơmĭn hlô mơnơ̆ng, tơl tơjuh thŭn rơgao hĭ ƀơi ñu.
17“ ‘Ƀing ding kơna anŭn yơh khưp ngă kơ tơlơi anŭn, jing ƀing rơgoh hiam anŭn yơh pơhiăp pơhaih tơlơi klă̱ kơđi anŭn. Tui anŭn yơh, abih bang mơnuih mơnam dưi thâo krăn Pô Glông Hloh yơh jing Pô git gai abih bang dêh čar mơnuih mơnam. Ñu yơh jing Pô pha brơi hơdôm dêh čar anŭn kơ hlơi pô Ñu kiăng laih anŭn pŭ̱ đĭ pô đôč đač hloh git gai gah ngŏ kơ hơdôm dêh čar anŭn.’
18“Anŭn yơh jing tơlơi rơpơi Kâo, jing pơtao Nebukhadnezzar, hơmâo laih. Tui anŭn, ră anai, Ơ Beltesazzar, ruai bĕ kơ kâo hơdôm tơlơi rơpơi anŭn kiăng laĭ, yuakơ ƀu hơmâo hlơi pô rơgơi ôh amăng čar pơtao kâo dưi pơblang tơlơi anŭn brơi kơ kâo. Samơ̆ ih dưi yơh, yuakơ yang bơngăt ƀing yang rơgoh hiam dŏ hrŏm hăng ih.”

Daniêl Pơblang Tơlơi Rơpơi

19Giŏng anŭn, Daniêl, ăt hơmâo anăn pơkŏn mơ̆n Beltesazzar, rŭng răng sui ƀiă laih anŭn tơlơi pơmĭn ñu pơhuĭ pơbra̱l hĭ ñu yơh. Tui anŭn, pơtao laĭ kơ ñu tui anai, “Ơ Beltesazzar, anăm brơi tơlơi rơpơi anŭn ƀôdah tơlơi kiăng laĭ anŭn pơhuĭ pơbra̱l hĭ ih ôh.”
Beltesazzar laĭ glaĭ tui anai, “Ơ khua kâo hơi, brơi bĕ tơlơi rơpơi anai truh kơ ƀing rŏh ih laih anŭn tơlơi kiăng laĭ mơ̆ng tơlơi rơpơi anŭn truh kơ ƀing ayăt ih!
20Phŭn kơyâo ih ƀuh čă đĭ prŏng kơtang, hơmâo rơdŭ sŏ̱ adai, abih lŏn tơnah dưi ƀuh ñu, 21hơmâo khul hla hiam rô̆ laih anŭn hăng khul boh čroh bă blai, pha brơi gơnam ƀơ̆ng kơ abih bang, pha brơi tơui kơ khul hlô mơnơ̆ng glai, laih anŭn hơmâo khul hruh čim brĭm amăng khul than ñu anŭn, 22Ơ pơtao ăh, ih yơh jing phŭn kơyâo anŭn! Ih hơmâo jing hĭ laih prŏng kơtang. Tơlơi kơdrưh prŏng prin ih hơmâo prŏng đĭ truh kơ adai rơngit laih, laih anŭn tơlơi git gai ih pơlar truh kơ khul anih djŏp djang amăng lŏn tơnah anai.
23“Ơ pơtao ăh, ih ƀuh sa čô ding kơna, jing pô rơgoh hiam anŭn, trŭn rai mơ̆ng adai laih anŭn pơhiăp kraih tui anai, ‘Dro̱m hĭ bĕ phŭn kơyâo anai hăng pơrai hĭ, samơ̆ pioh glaĭ bĕ tơpơ̆ng phŭn ñu hăng akha ñu anŭn, akă hĭ bĕ hăng hrĕ pơsơi hăng ko̱ng, laih anŭn lui raih hĭ bĕ phŭn anŭn amăng đang hơma hơmâo rơ̆k. Brơi bĕ mơnuih anŭn hra̱m mơsăh hĭ hăng ia ngo̱m adai laih anŭn hơdip hrup hăng khul hlô mơnơ̆ng glai, tơl tơjuh thŭn rơgao hĭ ƀơi ñu.’
24“Anai yơh jing tơlơi pơblang, Ơ pơtao ăh, anai yơh jing tơlơi pơtă Pô Glông Hloh hơmâo pơtă laih kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng khua kâo jing ih yơh pơtao ăh tui anai: 25Arăng či puh pơđuaĭ hĭ ih mơ̆ng mơnuih laih anŭn ih či hơdip hrŏm hăng tơpul hlô mơnơ̆ng glai; ih či ƀơ̆ng rơ̆k hrup hăng rơmô laih anŭn ih či hra̱m mơsăh hăng ia ngo̱m adai yơh. Tơjuh thŭn či găn rơgao hĭ ƀơi ih tơl ih či thâo krăn Pô Glông Hloh yơh jing Pô git gai wai lăng abih dêh čar mơnuih mơnam laih anŭn Ñu jao brơi hơdôm dêh čar anŭn kơ hlơi pô Ñu kiăng yơh. 26Tơlơi pơđar pioh glaĭ bĕ tơpơ̆ng phŭn kơyâo wơ̆t hăng khul akha kơyâo anŭn kiăng laĭ kơ tơlơi Ơi Adai yơh či rŭ̱ pơdơ̆ng glaĭ dêh čar ih kơ ih git gai wai lăng dơ̆ng tơdang ih thâo krăn Ơi Adai yơh jing Pô git gai abih bang lŏn tơnah. 27Hơnŭn yơh, Ơ pơtao ăh, rơkâo kơ ih mơak tŭ mă bĕ tơlơi kâo djru pơmĭn anai: Hơngah lui hĭ bĕ hơdôm tơlơi soh ih, ngă bĕ hơget tơlơi jing djơ̆ tơpă, laih anŭn hơngah lui hĭ bĕ tơlơi sat ƀai ih hăng ngă bĕ hiam djơ̆ kơ ƀing mơnuih arăng kơtư̆ juă. Năng ai tơdah ih ngă hơdôm tơlơi djơ̆ anŭn, ih ăt či đĭ kơyar tŏ tui nanao yơh.”

Tơlơi Rơpơi Hơmâo Krep Truh

28Abih bang tơlơi rơpơi pơƀuh anŭn truh kơ pơtao Nebukhadnezzar yơh. 29Amăng pluh-dua blan tơdơi kơ anŭn, tơdang pơtao hlak rơbat ƀơi bơbŭng sang pơtao amăng lŏn čar Babilon, 30pơtao laĭ tui anai, “Ƀu djơ̆ ôh hă anai yơh jing čar Babilon prŏng kâo hơmâo ma̱n pơdơ̆ng đĭ laih, jing anih dŏ pơtao, hăng tơlơi dưi kơtang kâo pô pioh kơ tơlơi ang yang kơdrưh kơang kâo pô?”
31Tơdang boh hiăp ñu ăt dŏ pơhiăp ƀơi amăng bah ñu, hơmâo sa asăp pơhiăp kraih mơ̆ng adai adih tui anai, “Ơ pơtao Nebukhadnezzar, anai yơh jing tơlơi hơmâo pơtă laih kơ ih: Ră anai Kâo mă pơđuaĭ hĭ laih tơlơi dưi pơtao mơ̆ng ih. 32Kâo či puh pơđuaĭ hĭ ih mơ̆ng anih mơnuih mơnam hơdip, tui anŭn, ih či hơdip hrŏm hăng khul hlô mơnơ̆ng glai laih anŭn či ƀơ̆ng rơ̆k hrup hăng rơmô yơh. Tơjuh thŭn či găn rơgao hĭ ƀơi ih tơl ih thâo krăn Kâo, jing Pô Glông Hloh, jing Pô git gai wai lăng abih bang dêh čar mơnuih mơnam laih anŭn Kâo jao brơi hơdôm dêh čar anŭn kơ hlơi pô Kâo kiăng yơh.”
33Blĭp blăp mông anŭn mơtam, hơdôm tơlơi hơmâo laĭ laih kơ pơtao Nebukhadnezzar krep truh hĭ. Arăng puh pơđuaĭ hĭ ñu mơ̆ng anih mơnuih mơnam hơdip laih anŭn ñu ƀơ̆ng rơ̆k hrup hăng rơmô yơh. Drơi jan ñu hra̱m mơsăh hăng ia ngo̱m adai tơl ƀŭk ñu čă đĭ hrup hăng blâo čăng čim si̱ng laih anŭn khul tơkâo ñu čă đĭ hrup hăng tơkâo khul čim brĭm yơh.
34Ƀơi hơnăl tuč kơ tơjuh thŭn anŭn găn rơgao hĭ laih, kâo, Nebukhadnezzar, angak đĭ mơta kâo pơ adai adih laih anŭn tơlơi pơmĭn kâo jing glaĭ hiam. Giŏng anŭn, kâo bơni hơơč kơ Pô Glông Hloh yơh. Kâo pơpŭ bơni kơ Ñu laih anŭn pơư pơang Ñu jing Pô hơdip hlŏng lar yơh.
  Tơlơi Ñu git gai wai lăng jing tơlơi git gai hlŏng lar;
   Dêh čar Ñu ăt dŏ nanao amăng abih bang rơnŭk.
  35Abih bang mơnuih mơnam amăng lŏn tơnah
   yap jing kar hăng đôč đač yơh.
  Ñu ngă tui hăng tơlơi Ñu mơak
   kơ ƀing ling jang adai adih
   laih anŭn kơ ƀing mơnuih mơnam lŏn tơnah anai.
  Ƀu hơmâo hlơi pô ôh pơkơ̆ng hĭ tơngan Ñu
   ƀôdah laĭ kơ Ñu tui anai, “Hơget tơlơi Ih hơmâo ngă laih lĕ?”
36Ƀơi mông anŭn mơ̆n tơlơi pơmĭn kâo hơmâo suaih hĭ laih, Ơi Adai hơmâo brơi laih kơ ƀing arăng pơpŭ pơyom glaĭ kơ kâo hăng tơlơi kơdrưh kơang git gai dêh čar kâo. Ƀing khua djru pơmĭn, ƀing khua kơdrưh kơang kâo ju̱m mơak kơ kâo wơ̆t glaĭ. Laih anŭn, arăng pơkơjăp glaĭ kâo ƀơi grê pơtao git gai wai lăng laih anŭn kâo jing hĭ yom prŏng hloh kơ tơlơi git gai kâo hơmâo hlâo adih yơh. 37Tui anŭn yơh, ră anai kâo, pơtao Nebukhadnezzar, bơni hơơč, pơdun đĭ laih anŭn pơư pơang kơ Pơtao hăng adai adih, yuakơ rĭm tơlơi Ñu ngă jing djơ̆ laih anŭn abih bang jơlan Ñu jing tơpă hơnơ̆ng yơh. Laih anŭn, hlơi pô hơdip hơdơ̆ng amăng tơlơi pơgao ang, Ñu dưi pơtrŭn hĭ pô anŭn yơh.