4

Những điều Chúa tỏ cho Giăng thấy

(Từ đoạn 4 đến 22:5)

Ngôi của Đức Chúa Trời, hai mươi bốn trưởng lão và bốn con sinh vật

1 Kế đó, tôi nhìn xem, này, một cái cửa mở ra trên trời; và tiếng thứ nhất mà tôi đã nghe nói với tôi, vang rầm như tiếng loa, phán cùng tôi rằng: Hãy lên đây, ta sẽ cho ngươi thấy điều sau này phải xảy đến.
2 Tức thì tôi bị Thánh Linh cảm hóa; thấy một ngôi đặt tại trên trời, trên ngôi có một Đấng đương ngồi đó. 3 Đấng ngồi đó rực rỡ như bích ngọc và mã não; có cái mống dáng như lục bửu thạch bao chung quanh ngôi. 4 Chung quanh ngôi lại có hai mươi bốn ngôi; trên những ngôi ấy tôi thấy hai mươi bốn trưởng lão ngồi, mặc áo trắng và đầu đội mão triều thiên vàng.
5 Từ ngôi ra những chớp nhoáng, những tiếng cùng sấm; và bảy ngọn đèn sáng rực thắp trước ngôi: Đó là bảy vị thần của Đức Chúa Trời. 6 Trước ngôi có như biển trong ngần giống thủy tinh, còn chính giữa và chung quanh có bốn con sinh vật, đằng trước đằng sau chỗ nào cũng có mắt. 7 Con sinh vật thứ nhất giống như sư tử, con thứ nhì như bò đực, con thứ ba mặt như mặt người, con thứ tư như chim phụng hoàng đang bay. 8 Bốn con sinh vật ấy mỗi con có sáu cánh, chung quanh mình và trong mình đều có mắt; ngày đêm lúc nào cũng nói luôn không dứt:
 Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Chúa, là Đức Chúa Trời, Đấng Toàn năng. Trước đã có, nay hiện có, sau còn đến!
9 Khi các sinh vật lấy những sự vinh hiển, tôn quí, cảm tạ mà dâng cho Đấng ngự trên ngôi là Đấng hằng sống đời đời, 10 thì hai mươi bốn trưởng lão sấp mình xuống trước mặt Đấng ngự trên ngôi, và thờ lạy Đấng hằng sống đời đời; rồi quăng mão triều thiên mình trước ngôi mà rằng:
11 Lạy Đức Chúa Trời là Chúa chúng tôi, Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và quyền lực; vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý muốn Chúa mà muôn vật mới có và đã được dựng nên.

4

Ntốq Yiang Sursĩ Tacu Cỡt Sốt Tâng Paloŏng

1Vớt ki cứq hữm muoi ngoah toong noau pớh tâng paloŏng. Chơ cứq sâng muoi sưong casang lứq ariang noau plóng lavia, machớng cứq khoiq sâng tễ nhũang chơ. Sưong ki atỡng cứq neq: “Mới chỗn pỡ nâi. Cứq ễ yỗn mới hữm máh ranáq ễ toâq nỡ‑ra.”
2Bo ki toâp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm cứq. Chơ cứq hữm muoi cachơng puo dốq tacu tâng paloŏng. Cớp cứq hữm manoaq ỡt tacu tâng cachơng ki. 3Roâp án claq poang samoât poang claq tễ tamáu moat lứq, ramứh yat-pít cớp sardĩan. Cớp bữn parêng cáng claq chũop ntốq án tacu. Parêng cáng nâi la samoât tamáu ramứh samar-danô. 4Ỡt mpễr cachơng puo tacu bữn bar chít la pỗn lám cachơng canŏ́h ễn. Cớp bữn bar chít la pỗn náq arieih thâu ỡt tacu tâng cachơng ki. Alới sớp tampâc cloc, cớp tapưng vuam yễng. 5Tễ ntốq puo tacu bữn lalieiq cớp sưong samoât sưong crứm. Cớp bữn tapul lám tabong blữ trông yáng moat ntốq puo tacu. Tapul lám tabong ki la tapul ngê Raviei Yiang Sursĩ chuai cũai. 6Yáng moat ntốq puo tacu, cứq hữm kếng la‑a riang dỡq mưt, cớp raloang lứq. Bữn pỗn lám charán ỡt mpễr ntốq puo tacu. Pỗn lám charán ki bữn sa‑ữi moat, yoah moat cớp yoah clĩ. 7Charán muoi la ariang cula samín. Charán bar la ariang ntroŏq con. Charán pái bữn mieiq ariang cũai. Cớp charán pỗn la ariang chớm calang crức. 8Dũ pỗn lám charán ki bữn tapoât lám khlap. Cớp tâng khlap alới bữn sa‑ữi moat, yoah tiah cớp yoah clống khlap. Tangái sadâu alới tỡ nai tangứt pai neq:
  “Bráh o, bráh o, bráh o lứq
   la Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq.
  Án la Yiang ca tamoong mantái,
   tễ dâu toâq sanua, cớp toau sốt nheq dũ dỡi.”
9Bo pỗn lám charán ki khễn, yám noap, cớp sa‑ỡn án ca tacu tâng cachơng puo, la án ca tamoong mantái níc, 10bo ki arieih thâu bar chít la pỗn náq ki sacốh racớl yáng moat án ca tacu tâng cachơng puo, cớp alới sang toam án ca tamoong mantái níc. Alới pũot carvang vuam yễng tễ plỡ alới, chơ achúh dŏq bân ntốq puo tacu. Cớp alới pai neq:
  11“Cucốh Yiang Sursĩ, Ncháu hếq ơi!
  Lứq pĩeiq hếq khễn anhia cớp yám noap anhia;
   cớp lứq pĩeiq anhia sốt dũ ramứh.
  Yuaq anhia toâp khoiq tễng dũ ramứh.
   Dũ ramứh ki lứq bữn cỗ anhia toâp ễq yỗn bữn ngkíq.”