9

Mười hai sứ đồ được sai đi

(Mat 10:5-15; 14:1-12; Mac 6:7-29)

1 Đức Chúa Jêsus nhóm họp mười hai sứ đồ, ban quyền năng phép tắc để trị quỉ chữa bịnh. 2 Rồi Ngài sai đi rao giảng về nước Đức Chúa Trời cùng chữa lành kẻ có bịnh. 3 Ngài dạy rằng: Đi đường chớ đem gì theo hết, hoặc gậy, hoặc bao, hoặc bánh, hoặc tiền bạc; cũng đừng đem hai áo. 4 Hễ các ngươi vào nhà nào, hãy ở đó cho đến khi đi. 5 Còn ai không tiếp rước các ngươi, hãy ra khỏi thành họ, và phủi bụi chân mình để làm chứng nghịch cùng họ. 6 Vậy, các sứ đồ ra đi, từ làng nầy tới làng kia, rao giảng Tin lành khắp nơi và chữa lành người có bịnh.

Sự lo sợ của vua Hê-rốt

7 Bấy giờ, Hê-rốt là vua chư hầu, nghe nói về các việc xảy ra, thì không biết nghĩ làm sao; vì kẻ nầy nói rằng: Giăng đã từ kẻ chết sống lại; 8 kẻ khác nói rằng: Ê-li đã hiện ra; và kẻ khác nữa thì rằng: Một trong các đấng tiên tri đời xưa đã sống lại. 9 Song Hê-rốt thì nói: Ta đã truyền chém Giăng rồi: Vậy người nầy là ai, mà ta nghe làm những việc dường ấy? Vua bèn tìm cách thấy Đức Chúa Jêsus.

Sự hóa bánh ra nhiều

(Mat 14:13-21; Mac 6:30-44; Gi 6:1-14)

10 Các sứ đồ trở về trình cùng Đức Chúa Jêsus mọi việc mình đã làm. Ngài bèn đem các sứ đồ đi tẽ ra với mình đến gần thành kia gọi là Bết-sai-đa. 11 Nhưng dân chúng nghe vậy, thì đi theo Ngài. Đức Chúa Jêsus tiếp đãi dân chúng, giảng cho họ về nước Đức Chúa Trời, và chữa cho những kẻ cần được lành bịnh. 12 Khi gần tối, mười hai sứ đồ đến gần Ngài mà thưa rằng: Xin truyền cho dân chúng về, để họ đến các làng các ấp xung quanh mà trọ và kiếm chi ăn; vì chúng ta ở đây là nơi vắng vẻ. 13 Song Ngài phán rằng: Chính các ngươi hãy cho họ ăn. Các sứ đồ thưa rằng: Ví thử chính mình chúng tôi không đi mua đồ ăn cho hết thảy dân nầy, thì chỉ có năm cái bánh và hai con cá mà thôi. 14 Vả, bấy giờ có độ năm ngàn người nam ở đó. Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: Hãy biểu chúng ngồi từng hàng năm mươi người. 15 Môn đồ làm theo lời; chúng ngồi xuống hết thảy. 16 Đoạn, Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, chúc tạ, rồi bẻ ra trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân. 17 Ai nấy ăn no rồi, người ta thâu được mười hai giỏ đầy những miếng thừa.

Phi-e-rơ xưng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ

(Mat 16:13-28; Mac 8:27-30–9:1)

18 Một ngày kia, Đức Chúa Jêsus đang cầu nguyện riêng, môn đồ nhóm lại xung quanh Ngài, Ngài hỏi rằng: Trong dân chúng, họ nói ta là ai? 19 Thưa rằng: Người nầy nói là Giăng Báp-tít, người kia nói là Ê-li; kẻ khác nói là một trong các đấng tiên tri đời xưa sống lại. 20 Ngài lại hỏi rằng: Còn về phần các ngươi thì nói ta là ai? Phi-e-rơ thưa rằng: Thầy là Đấng Christ của Đức Chúa Trời. 21 Đức Chúa Jêsus nghiêm cấm môn đồ nói sự ấy với ai, 22 và phán thêm rằng: Con người phải chịu nhiều điều khốn khổ, phải bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả, và các thầy thông giáo bỏ ra, phải bị giết, ngày thứ ba phải sống lại.
23 Đoạn, Ngài phán cùng mọi người rằng: Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta. 24 Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống, thì sẽ cứu. 25 Nếu ai được cả thiên hạ, mà chính mình phải mất hoặc hư đi, thì có ích gì? 26 Vì nếu ai hổ thẹn về ta và lời ta, thì Con người sẽ hổ thẹn về họ, khi Ngài ngự trong sự vinh hiển của mình, của Cha, và của thiên sứ thánh mà đến. 27 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, một vài người trong các ngươi đương đứng đây sẽ không chết trước khi chưa thấy nước Đức Chúa Trời.

Sự hóa hình

(Mat 17:1-8; Mac 9:2-8)

28 Độ tám ngày sau khi phán các lời đó, Đức Chúa Jêsus đem Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ đi với mình lên trên núi để cầu nguyện. 29 Đương khi cầu nguyện, diện mạo Ngài khác thường, áo Ngài trở nên sắc trắng chói lòa. 30 Và nầy, có hai người nói chuyện cùng Ngài; ấy là Môi-se và Ê-li, 31 hiện ra trong sự vinh hiển, và nói về sự Ngài qua đời, là sự sẽ phải ứng nghiệm tại thành Giê-ru-sa-lem. 32 Phi-e-rơ cùng đồng bạn mình buồn ngủ lắm, nhưng vừa tỉnh thức ra, thấy vinh hiển của Đức Chúa Jêsus và hai đấng ấy đứng gần Ngài. 33 Lúc hai đấng ấy lìa khỏi Đức Chúa Jêsus, Phi-e-rơ thưa Ngài rằng: Thưa thầy, chúng ta ở đây tốt lắm, hãy đóng ba trại, một cái cho thầy, một cái cho Môi-se, và một cái cho Ê-li. Vì Phi-e-rơ không biết mình nói chi. 34 Khi người còn đương nói, có một đám mây kéo đến, bao phủ lấy; và khi vào trong đám mây, các môn đồ đều sợ hãi. 35 Bấy giờ, nghe có tiếng từ trong đám mây phán ra rằng: Nầy là Con ta, Người được lựa chọn của ta, hãy nghe Người. 36 Khi tiếng ấy phát ra, thì Đức Chúa Jêsus ở một mình. Các môn đồ nín lặng, không nói cùng ai về sự mình đã thấy.

Người bị quỉ ám

(Mat 17:14-21; Mac 9:14-29)

37 Bữa sau, khi Chúa cùng môn đồ từ núi xuống, có đoàn dân đông đến đón rước Ngài. 38 Một người trong đám đông kêu lên rằng: Lạy thầy, xin thầy đoái đến con trai tôi, vì là con một tôi. 39 Một quỉ ám nó, thình lình kêu la; quỉ vật vã nó dữ tợn, làm cho sôi bọt miếng, mình mẩy nát hết, rồi mới ra khỏi. 40 Tôi đã xin môn đồ thầy đuổi quỉ đó, nhưng họ đuổi không được. 41 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi dòng dõi không tin và bội nghịch kia, ta ở với các ngươi và nhịn các ngươi cho đến chừng nào? Hãy đem con của ngươi lại đây. 42 Đứa con trai vừa lại gần, quỉ xô nó nhào xuống đất, và vật vã dữ tợn. Song Đức Chúa Jêsus quở nặng tà ma, chữa lành con trẻ ấy, và giao lại cho cha nó.

Đức Chúa Jêsus phán trước về sự chết mình

(Mat 17:22,23; Mac 9:30-32)

43 Ai nấy đều lấy làm lạ về quyền phép cao trọng của Đức Chúa Trời. Khi mọi người đang khen lạ các việc Đức Chúa Jêsus làm, Ngài phán cùng môn đồ rằng: 44 Về phần các ngươi, hãy nghe kỹ điều ta sẽ nói cùng: Con người sẽ bị nộp trong tay người ta. 45 Nhưng các môn đồ không hiểu lời ấy, vì đã che khuất cho mình để chẳng rõ nghĩa làm sao; và sợ không dám hỏi Ngài về lời ấy.

Sự cao trọng thật

(Mat 18:1-5; Mac 9:33-40)

46 Các môn đồ biện luận cùng nhau cho biết ai là lớn hơn hết trong hàng mình. 47 Nhưng Đức Chúa Jêsus biết ý tưởng trong lòng môn đồ, thì lấy một đứa con trẻ để gần mình, 48 mà phán rằng: Hễ ai vì danh ta mà tiếp con trẻ nầy, tức là tiếp ta; còn ai tiếp ta, tức là tiếp Đấng đã sai ta. Vì kẻ nào hèn mọn hơn hết trong vòng các ngươi, ấy chính người đó là kẻ cao trọng.
49 Giăng cất tiếng nói rằng: Thưa thầy, chúng tôi từng thấy có kẻ nhân danh thầy mà trừ quỉ; chúng tôi đã cấm họ, vì không cùng chúng tôi theo thầy. 50 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đừng cấm họ, vì ai không nghịch cùng các ngươi, là thuận với các ngươi.

Sự Đức Chúa Jêsus đi lên thành Giê-ru-sa-lem

(Từ 9:51 đến 19:28)

Đức Chúa Jêsus tại Sa-ma-ri

51 Khi gần đến kỳ Đức Chúa Jêsus được đem lên khỏi thế gian, Ngài quyết định đi thành Giê-ru-sa-lem. 52 Ngài sai kẻ đem tin đi trước mình. Họ ra đi, vào một làng của người Sa-ma-ri để sửa soạn nhà trọ cho Ngài; 53 song người Sa-ma-ri không tiếp rước Ngài, vì Ngài đi thẳng lên thành Giê-ru-sa-lem. 54 Gia-cơ và Giăng là môn đồ Ngài, thấy vậy, nói rằng: Thưa Chúa, Chúa có muốn chúng tôi khiến lửa từ trên trời xuống thiêu họ chăng? 55 Nhưng Đức Chúa Jêsus xây lại quở hai người, (mà rằng: Các ngươi không biết tâm thần nào xui giục mình.) 56 Rồi Ngài cùng môn đồ đi qua làng khác.

Cần phải thể nào đặng theo Chúa

(Mat 8:19-22)

57 Đang khi đi đường, có kẻ thưa Ngài rằng: Chúa đi đâu tôi sẽ theo đó. 58 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ mà gối đầu.
59 Ngài phán cùng kẻ khác rằng: Ngươi hãy theo ta. Kẻ ấy thưa rằng: Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã. 60 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao giảng nước Đức Chúa Trời.
61 Có kẻ khác nữa thưa rằng: Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song xin cho phép tôi trước về từ giã người trong nhà tôi. 62 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời.

9

Yê-su Ớn Tỗp Muoi Chít La Bar Náq Pỡq Atỡng

(Mathia 10:5-15; Mac 6:7-13)

1Yê-su arô tỗp muoi chít la bar náq rien tễ án toâq pỡ án. Án yỗn alới bữn chớc têq tuih aloŏh yiang sâuq payốh cũai, cớp têq táq bán máh cũai a‑ĩ. 2Chơ án ớn alới pỡq atỡng tễ Yiang Sursĩ táq sốt, cớp án ớn alới táq bán máh cũai a‑ĩ. 3Án patâp alới neq: “Anhia chỗi dững crơng ntrớu. Chỗi dững ralỡng. Chỗi poac tũi. Chỗi dững crơng sana. Chỗi dững práq. Cớp chỗi dững bar ploah au. 4Tữ anhia mut tâng vil, cóq anhia ỡt muoi dống sâng toau toâq anhia loŏh tễ vil ki. 5Khân anhia mut tâng vil léq, ma noau tỡ bữn roap cớp tabỡp o anhia, toâq anhia loŏh tễ vil ki, cóq anhia trutrếh phốn cutễq tễ ayững. Nâi la táq tếc cũai tâng vil ki tỡ bữn roap anhia.”
6Ngkíq alới pỡq chu vil cớt vil toâr cớp atỡng parnai o tễ Yiang Sursĩ. Alới táq bán máh cũai a‑ĩ.

Hê-rôt Saria Sarnớm

(Mathia 14:1-12; Mac 6:14-29)

7Hê-rôt, án ca sốt tâng cruang Cali-lê, án sâng tễ máh ranáq Yê-su táq. Ngkíq án saria sarnớm, yuaq án sâng noau pai Yang dốq táq batễm khoiq tamoong loah tễ cuchĩt.
8Bữn cũai pai Ê-li khoiq toâq loah chơ. Cớp bữn cũai pai manoaq tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq tamoong loah tễ cuchĩt. 9Ma Hê-rôt pai neq: “Lứq cứq khoiq cŏ́h tacong Yang, ma cũai nâi la noau, án ca cứq sâng noau pai án táq ranáq ngkíq?”
 Ngkíq Hê-rôt chuaq ễ ramóh Yê-su.

Yê-su Siem Sỡng Ngin Náq Cũai

(Mathia 14:13-21; Mac 6:30-44; Yang 6:1-14)

10Máh cũai ayững atĩ Yê-su chu atỡng loah án tễ máh ranáq alới khoiq táq. Án dững alới pỡq cớp án chu muoi ntốq cheq vil Bet-sada. Ntốq ki tỡ bữn noau ỡt. 11Toâq máh cũai dáng Yê-su pỡq chu ntốq ki, ngkíq clứng lứq alới pỡq puai án. Yê-su tabỡp tabéh alới, cớp án atỡng alới tễ Yiang Sursĩ táq sốt. Cớp án táq bán cũai ca a‑ĩ.
12Cheq moat mandang tahỗr, tỗp rien tễ Yê-su toâq pỡ án cớp pai neq: “Sễq thâi ớn cũai clứng nâi chu pỡ vil cớt vil toâr mpễr nâi yỗn alới chuaq ntốq ỡt cớp chỡng bữm crơng sana cha, yuaq ntốq nâi yơng tễ cũai ỡt.”
13Ma Yê-su atỡng alới neq: “Anhia toâp yỗn alới bữn crơng sana cha.”
 Alới ki pai neq: “Hếq bữn ống sỡng lám bễng cớp bar lám sĩaq. Thâi yoc hếq pỡq chỡng crơng sana yỗn cũai clứng nâi cha tỡ?”
14Ỡt tâng ntốq ki bữn sám sỡng ngin náq samiang carsai, ma tỡ bữn noap mansễm cớp carnễn. Chơ Yê-su atỡng tỗp rien tễ án neq: “Anhia ớn nheq tữh cũai nâi tacu, muoi ntốq sám sỡng chít náq.”
15Chơ tỗp rien tễ Yê-su ớn cũai clứng ki tacu. 16Yê-su ĩt sỡng lám bễng cớp bar lám sĩaq. Chơ án tapoang achỗn chu paloŏng cớp sa‑ỡn Yiang Sursĩ bữn crơng sana cha nâi. Moâm ki, án pĩh bễng cớp chiau pỡ tỗp rien tễ án tampễq yỗn nheq tữh cũai cha. 17Nheq tữh cũai ki cha pasâi nheq. Moâm alới cha, tỗp rien tễ Yê-su parỗm loah máh ngcáh bữn muoi chít la bar crưo.

Yê-su Atỡng Tễ Án Cóq Chĩuq Cuchĩt

(Mathia 16:13-28; Mac 8:27-9:1)

18Bữn muoi tangái bo Yê-su ntôm câu manoaq án, tỗp rien tễ án toâq pỡ án. Chơ Yê-su blớh alới neq: “Máh cũai clứng pai cứq la noau?”
19Alới ta‑ỡi neq: “Bữn cũai pai thâi la Yang dốq táq batễm. Bữn cũai pai thâi la Ê-li. Cớp bữn cũai canŏ́h ễn pai thâi la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ ca tamoong loah tễ cuchĩt.”
20Yê-su blớh loah alới neq: “Ma anhia pai cứq la noau?”
 Phi-er ta‑ỡi neq: “Thâi la Crĩt, án ca Yiang Sursĩ rưoh dŏq chuai amoong cũai!”
21Yê-su patâp alới chỗi atỡng yỗn cũai canŏ́h dáng tễ ŏ́c nâi. 22Cớp án atỡng ễn neq: “Chumát cứq, Con Yiang Cỡt Cũai, cóq chĩuq sa‑ữi ramứh túh coat. Máh cũai sốt nheq sâu, máh cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ, cớp máh cũai yống rit, alới kêt cứq, cớp cachĩt cứq. Ma catâm tangái pái, cứq yuor tamoong loah.”
23Moâm ki, Yê-su atỡng nheq alới ki neq: “Khân bữn cũai aléq yoc ễ puai cứq, cóq án táh chíq ngê án bữm. Cu rangái án cóq ĩt dỗl bữm aluang sangcáng án, cớp cóq án puai cứq. 24Cũai aléq ma pasếq rangứh án, rangứh cũai ki lứq pứt. Ma cũai aléq ma chĩuq pứt rangứh án cỗ tian án puai ngê cứq, rangứh cũai ki lứq tỡ nai pứt. 25Khân cũai aléq bữn túc palễc crơng crớu tâng dỡi nâi, ma án táh tỡ la pứt rangứh án, ntrớu kia yỗn cũai ki? 26Khân cũai aléq ma casiet táq tễ cứq cớp tễ parnai cứq yáng moat cũai tâng dỡi nâi, nỡ‑ra cứq, Con Yiang Cỡt Cũai, lứq casiet táq cũai ki tê tâng tangái cứq toâq loah pỡ cutễq nâi. Tangái ki cứq toâq parnơi cớp máh ranễng Yiang Sursĩ cớp bữn chớc ang‑ữr tễ Mpoaq cứq. 27Cứq atỡng anhia samoât lứq, bữn máh cũai ỡt tayứng ntốq nâi sanua, alới tỡ yũah cuchĩt toau alới bữn hữm Yiang Sursĩ táq sốt.”

Roâp Yê-su Cỡt Mpha Ễn

(Mathia 17:1-8; Mac 9:2-8)

28Vớt Yê-su pai máh santoiq ki, sám tacual tangái ễn, án dững Phi-er, Yang, cớp Yacỡ chỗn nứng án tâng cóh dŏq câu ngki. 29Bo Yê-su câu, án samblớt cỡt roâp mpha ễn, cớp tampâc án cỡt cloc sarbal moat. 30Bữn bar náq toâq táq ntỡng cớp Yê-su la Môi-se cớp Ê-li. 31Roâp alới ang‑ữr, cớp alới atỡng tễ ranáq Yê-su táq yỗn moâm toâq án chĩuq cuchĩt tâng vil Yaru-salem. 32Ma Phi-er cớp yớu án sâng ễ bếq. Tữ alới tamỡ, alới hữm ang‑ữr roâp Yê-su, cớp bar náq cũai ki tayứng cớp Yê-su. 33Tữ bar náq ki loŏh tễ Yê-su, Phi-er atỡng Yê-su neq: “Thâi ơi! Hái ỡt nâi la o lứq. Hếq ễ táq pái lám nloâh, muoi lám yỗn thâi, muoi lám yỗn Môi-se, cớp muoi lám ễn yỗn Ê-li.”
 Ma Phi-er chuaq pai tỡ cỡt ŏ́c.
34Bo Phi-er noâng táq ntỡng, bữn ramứl clũom alới. Ngkíq alới sâng ngcŏh lứq. 35Cớp bữn sưong sabau atỡng tễ ramứl ki neq: “Nâi la Con cứq, án ca cứq ayooq lứq. Ntrớu án atỡng, cóq anhia tamứng cớp trĩh án!”
36Tữ rangiac sưong ki, alới hữm ống Yê-su sâng ỡt ntốq ki. Ngkíq pái náq tỗp rien tễ Yê-su tỡ bữn atỡng yỗn cũai canŏ́h dáng tễ ranáq alới khoiq hữm, toau toâq tangái Yê-su cuchĩt cớp tamoong loah.

Con Samiang Bữn Yiang Sâuq Payốh

(Mathia 17:14-18; Mac 9:14-27)

37Máh tangái parnỡ ễn, toâq alới sễng tễ cóh, bữn clứng lứq cũai toâq ramóh Yê-su. 38Bữn manoaq tễ cũai clứng ki sabau casang lứq neq: “Thâi ơi! Cứq sễq thâi nhêng con samiang cứq. Cứq bữn ống muoi lám án toâp. 39Cớp yiang sâuq dốq payốh án. Án dốq hễr toâq yiang sâuq nhoac án, chơ loŏh rapooh tễ bỗq. Yiang ki carnhoac-carnhứl, chơ tangứt, ma án tỡ bữn táh tỗ con cứq! 40Cứq khoiq canưi máh tỗp rien tễ thâi yỗn tuih aloŏh yiang sâuq tễ tỗ con cứq, ma alới tuih tỡ riap.”
41Yê-su ta‑ỡi neq: “Anhia ơi! Anhia ca ỡt tâng dỡi nâi tỡ bữn sa‑âm cớp anhia loâi lứq! Noâng máh léq dũn cứq cóq ỡt cớp anhia, cớp chĩuq anhia tỡ bữn sa‑âm? Dững con ki toâq pỡ cứq!”
42Bo carnễn samiang ki toâq, yiang sâuq ki carvứt cớp atáih án tâng cutễq. Yê-su ớn yiang sâuq loŏh toâp tễ tỗ carnễn ki. Chơ carnễn ki cỡt bán loah. Yê-su chiau loah án pỡ mpoaq án. 43Nheq tữh cũai ki sâng dớt tễ Yiang Sursĩ bữn chớc toâr lứq têq táq ngkíq.

Yê-su Atỡng Loah Tễ Án Cóq Chĩuq Cuchĩt

(Mathia 17:22-23; Mac 9:30-32)

 Bo máh cũai ki noâng sâng dớt tễ ranáq Yê-su táq ngkíq, ki Yê-su atỡng tỗp rien tễ án neq: 44“Anhia tamứng yỗn samoât máh santoiq cứq atỡng anhia sanua! Cheq chơ noau ễ chiau cứq, Con Yiang Cỡt Cũai, pỡ atĩ cũai sốt!”
45Ma alới tỡ bữn sapúh santoiq ki. Yiang Sursĩ cutooq ŏ́c ki tỡ yỗn alới dáng. Cớp alới tỡ khớn blớh Yê-su tễ ŏ́c ki.

Noau Toâr Clữi Nheq Tễ Canŏ́h?

(Mathia 18:1-5; Mac 9:33-37)

46Tỗp rien tễ Yê-su rasuon tễ noau toâr clữi nheq tễ canŏ́h tâng tỗp alới. 47Yê-su dáng alới chanchớm tễ ŏ́c ki. Ngkíq Yê-su tếc muoi noaq carnễn yỗn tayứng cheq án. 48Cớp án atỡng tỗp rien tễ án neq: “Cũai aléq roap carnễn máh nâi cỗ án sa‑âm cứq, cũai ki lứq roap cứq tê. Cớp cũai aléq roap cứq, machớng cũai ki roap dếh án ca ớn cứq toâq pỡ nâi tê. Cũai aléq yoc ễ cỡt toâr clữi nheq tễ canŏ́h tâng tỗp anhia, cóq cũai ki cỡt cacớt clữi nheq tễ cũai canŏ́h.”

Aléq Ca Tỡ Bữn Par‑ũal Hái Samoât Án Chuai Hái

(Mac 9:38-40)

49Yang atỡng Yê-su neq: “Thâi ơi! Hếq khoiq hữm manoaq cũai tuih aloŏh yiang sâuq, cớp án talếq ramứh thâi. Ma hếq tỡ yỗn án táq noâng ranáq ngkíq, yuaq án tỡ bữn puai hái.”
50Ma Yê-su atỡng loah Yang neq: “Anhia chỗi catáng án. Cũai aléq ma tỡ bữn sanũi anhia, nâi la riang án chuai anhia tê.”

Yê-su Pỡq Luat Vil Cũai Sa-mari

51Cheq ễ toâq tangái Yê-su chỗn loah chu paloŏng; ngkíq Yê-su chanchớm ễ pỡq chu vil Yaru-salem. 52Án ớn máh cũai dững parnai pỡq nhũang. Cũai ki mut tâng muoi vil cũai Sa-mari dŏq thrũan yỗn Yê-su toâq. 53Ma cũai tâng vil ki tỡ bữn roap Yê-su, yuaq alới dáng án ễ pỡq pỡ vil Yaru-salem. 54Toâq Yacỡ cớp Yang, la tỗp rien tễ Yê-su tê, alới dáng ŏ́c ki, ngkíq alới blớh Yê-su neq: “Ncháu ơi! Ncháu yoc hếq arô ũih tễ paloŏng sễng chŏ́ng chíq alới ki tỡ?”
55Ma Yê-su luliaq nhêng chu alới, cớp án sưoq alới chỗi chanchớm ngkíq. 56Chơ alới pỡq chu vil canŏ́h ễn.

Cóq Hái Táq Nŏ́q Ễ Puai Ngê Yê-su?

(Mathia 8:19-22)

57Bo alới pỡq tâng rana, bữn manoaq toâq pỡ Yê-su cớp pai neq: “Thâi ơi! Pỡ léq thâi pỡq, cứq puai thâi pỡ ki tê.”
58Yê-su atỡng án neq: “Ayoŏng bữn cưp, chớm bữn sóh, ma Con Yiang Cỡt Cũai tỡ bữn ntốq yỗn án bếq.”
59Yê-su ớn manoaq samiang canŏ́h: “Mới puai cứq.”
 Ma cũai ki ta‑ỡi neq: “Ncháu ơi! Yỗn mpoaq cứq cuchĩt voai. Toâq moâm cứq tứp mpoaq cứq, cứq lứq puai Ncháu.”
60Yê-su atỡng loah án neq: “Yỗn alới ca tỡ bữn muoi mứt cớp cứq, yỗn chứm siem bữm cũai ca tỡ bữn muoi mứt cớp cứq. Cóq mới pỡq atỡng tễ Yiang Sursĩ táq sốt.”
61Bữn cũai canŏ́h pai neq: “Ncháu ơi! Cứq yoc ễ puai Ncháu tê, ma cứq sễq chu cubán dống sũ cứq voai.”
62Yê-su atỡng án neq: “Cũai táq vông tâng rô, khân án yống acán cái, cóq cũai ki chỗi luliaq chu clĩ. Ngkíq rana vông lứq tanoang o. Cũai táq ranáq Yiang Sursĩ la machớng ki tê. Khân án bữn bar mứt, Yiang Sursĩ lứq tỡ bữn táq sốt án.”