9

Mười hai sứ đồ được sai đi

(Mat 10:5-15; 14:1-12; Mac 6:7-29)

1 Đức Chúa Jêsus nhóm họp mười hai sứ đồ, ban quyền năng phép tắc để trị quỉ chữa bịnh. 2 Rồi Ngài sai đi rao giảng về nước Đức Chúa Trời cùng chữa lành kẻ có bịnh. 3 Ngài dạy rằng: Đi đường chớ đem gì theo hết, hoặc gậy, hoặc bao, hoặc bánh, hoặc tiền bạc; cũng đừng đem hai áo. 4 Hễ các ngươi vào nhà nào, hãy ở đó cho đến khi đi. 5 Còn ai không tiếp rước các ngươi, hãy ra khỏi thành họ, và phủi bụi chân mình để làm chứng nghịch cùng họ. 6 Vậy, các sứ đồ ra đi, từ làng nầy tới làng kia, rao giảng Tin lành khắp nơi và chữa lành người có bịnh.

Sự lo sợ của vua Hê-rốt

7 Bấy giờ, Hê-rốt là vua chư hầu, nghe nói về các việc xảy ra, thì không biết nghĩ làm sao; vì kẻ nầy nói rằng: Giăng đã từ kẻ chết sống lại; 8 kẻ khác nói rằng: Ê-li đã hiện ra; và kẻ khác nữa thì rằng: Một trong các đấng tiên tri đời xưa đã sống lại. 9 Song Hê-rốt thì nói: Ta đã truyền chém Giăng rồi: Vậy người nầy là ai, mà ta nghe làm những việc dường ấy? Vua bèn tìm cách thấy Đức Chúa Jêsus.

Sự hóa bánh ra nhiều

(Mat 14:13-21; Mac 6:30-44; Gi 6:1-14)

10 Các sứ đồ trở về trình cùng Đức Chúa Jêsus mọi việc mình đã làm. Ngài bèn đem các sứ đồ đi tẽ ra với mình đến gần thành kia gọi là Bết-sai-đa. 11 Nhưng dân chúng nghe vậy, thì đi theo Ngài. Đức Chúa Jêsus tiếp đãi dân chúng, giảng cho họ về nước Đức Chúa Trời, và chữa cho những kẻ cần được lành bịnh. 12 Khi gần tối, mười hai sứ đồ đến gần Ngài mà thưa rằng: Xin truyền cho dân chúng về, để họ đến các làng các ấp xung quanh mà trọ và kiếm chi ăn; vì chúng ta ở đây là nơi vắng vẻ. 13 Song Ngài phán rằng: Chính các ngươi hãy cho họ ăn. Các sứ đồ thưa rằng: Ví thử chính mình chúng tôi không đi mua đồ ăn cho hết thảy dân nầy, thì chỉ có năm cái bánh và hai con cá mà thôi. 14 Vả, bấy giờ có độ năm ngàn người nam ở đó. Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: Hãy biểu chúng ngồi từng hàng năm mươi người. 15 Môn đồ làm theo lời; chúng ngồi xuống hết thảy. 16 Đoạn, Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, chúc tạ, rồi bẻ ra trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân. 17 Ai nấy ăn no rồi, người ta thâu được mười hai giỏ đầy những miếng thừa.

Phi-e-rơ xưng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ

(Mat 16:13-28; Mac 8:27-30–9:1)

18 Một ngày kia, Đức Chúa Jêsus đang cầu nguyện riêng, môn đồ nhóm lại xung quanh Ngài, Ngài hỏi rằng: Trong dân chúng, họ nói ta là ai? 19 Thưa rằng: Người nầy nói là Giăng Báp-tít, người kia nói là Ê-li; kẻ khác nói là một trong các đấng tiên tri đời xưa sống lại. 20 Ngài lại hỏi rằng: Còn về phần các ngươi thì nói ta là ai? Phi-e-rơ thưa rằng: Thầy là Đấng Christ của Đức Chúa Trời. 21 Đức Chúa Jêsus nghiêm cấm môn đồ nói sự ấy với ai, 22 và phán thêm rằng: Con người phải chịu nhiều điều khốn khổ, phải bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả, và các thầy thông giáo bỏ ra, phải bị giết, ngày thứ ba phải sống lại.
23 Đoạn, Ngài phán cùng mọi người rằng: Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta. 24 Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống, thì sẽ cứu. 25 Nếu ai được cả thiên hạ, mà chính mình phải mất hoặc hư đi, thì có ích gì? 26 Vì nếu ai hổ thẹn về ta và lời ta, thì Con người sẽ hổ thẹn về họ, khi Ngài ngự trong sự vinh hiển của mình, của Cha, và của thiên sứ thánh mà đến. 27 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, một vài người trong các ngươi đương đứng đây sẽ không chết trước khi chưa thấy nước Đức Chúa Trời.

Sự hóa hình

(Mat 17:1-8; Mac 9:2-8)

28 Độ tám ngày sau khi phán các lời đó, Đức Chúa Jêsus đem Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ đi với mình lên trên núi để cầu nguyện. 29 Đương khi cầu nguyện, diện mạo Ngài khác thường, áo Ngài trở nên sắc trắng chói lòa. 30 Và nầy, có hai người nói chuyện cùng Ngài; ấy là Môi-se và Ê-li, 31 hiện ra trong sự vinh hiển, và nói về sự Ngài qua đời, là sự sẽ phải ứng nghiệm tại thành Giê-ru-sa-lem. 32 Phi-e-rơ cùng đồng bạn mình buồn ngủ lắm, nhưng vừa tỉnh thức ra, thấy vinh hiển của Đức Chúa Jêsus và hai đấng ấy đứng gần Ngài. 33 Lúc hai đấng ấy lìa khỏi Đức Chúa Jêsus, Phi-e-rơ thưa Ngài rằng: Thưa thầy, chúng ta ở đây tốt lắm, hãy đóng ba trại, một cái cho thầy, một cái cho Môi-se, và một cái cho Ê-li. Vì Phi-e-rơ không biết mình nói chi. 34 Khi người còn đương nói, có một đám mây kéo đến, bao phủ lấy; và khi vào trong đám mây, các môn đồ đều sợ hãi. 35 Bấy giờ, nghe có tiếng từ trong đám mây phán ra rằng: Nầy là Con ta, Người được lựa chọn của ta, hãy nghe Người. 36 Khi tiếng ấy phát ra, thì Đức Chúa Jêsus ở một mình. Các môn đồ nín lặng, không nói cùng ai về sự mình đã thấy.

Người bị quỉ ám

(Mat 17:14-21; Mac 9:14-29)

37 Bữa sau, khi Chúa cùng môn đồ từ núi xuống, có đoàn dân đông đến đón rước Ngài. 38 Một người trong đám đông kêu lên rằng: Lạy thầy, xin thầy đoái đến con trai tôi, vì là con một tôi. 39 Một quỉ ám nó, thình lình kêu la; quỉ vật vã nó dữ tợn, làm cho sôi bọt miếng, mình mẩy nát hết, rồi mới ra khỏi. 40 Tôi đã xin môn đồ thầy đuổi quỉ đó, nhưng họ đuổi không được. 41 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi dòng dõi không tin và bội nghịch kia, ta ở với các ngươi và nhịn các ngươi cho đến chừng nào? Hãy đem con của ngươi lại đây. 42 Đứa con trai vừa lại gần, quỉ xô nó nhào xuống đất, và vật vã dữ tợn. Song Đức Chúa Jêsus quở nặng tà ma, chữa lành con trẻ ấy, và giao lại cho cha nó.

Đức Chúa Jêsus phán trước về sự chết mình

(Mat 17:22,23; Mac 9:30-32)

43 Ai nấy đều lấy làm lạ về quyền phép cao trọng của Đức Chúa Trời. Khi mọi người đang khen lạ các việc Đức Chúa Jêsus làm, Ngài phán cùng môn đồ rằng: 44 Về phần các ngươi, hãy nghe kỹ điều ta sẽ nói cùng: Con người sẽ bị nộp trong tay người ta. 45 Nhưng các môn đồ không hiểu lời ấy, vì đã che khuất cho mình để chẳng rõ nghĩa làm sao; và sợ không dám hỏi Ngài về lời ấy.

Sự cao trọng thật

(Mat 18:1-5; Mac 9:33-40)

46 Các môn đồ biện luận cùng nhau cho biết ai là lớn hơn hết trong hàng mình. 47 Nhưng Đức Chúa Jêsus biết ý tưởng trong lòng môn đồ, thì lấy một đứa con trẻ để gần mình, 48 mà phán rằng: Hễ ai vì danh ta mà tiếp con trẻ nầy, tức là tiếp ta; còn ai tiếp ta, tức là tiếp Đấng đã sai ta. Vì kẻ nào hèn mọn hơn hết trong vòng các ngươi, ấy chính người đó là kẻ cao trọng.
49 Giăng cất tiếng nói rằng: Thưa thầy, chúng tôi từng thấy có kẻ nhân danh thầy mà trừ quỉ; chúng tôi đã cấm họ, vì không cùng chúng tôi theo thầy. 50 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đừng cấm họ, vì ai không nghịch cùng các ngươi, là thuận với các ngươi.

Sự Đức Chúa Jêsus đi lên thành Giê-ru-sa-lem

(Từ 9:51 đến 19:28)

Đức Chúa Jêsus tại Sa-ma-ri

51 Khi gần đến kỳ Đức Chúa Jêsus được đem lên khỏi thế gian, Ngài quyết định đi thành Giê-ru-sa-lem. 52 Ngài sai kẻ đem tin đi trước mình. Họ ra đi, vào một làng của người Sa-ma-ri để sửa soạn nhà trọ cho Ngài; 53 song người Sa-ma-ri không tiếp rước Ngài, vì Ngài đi thẳng lên thành Giê-ru-sa-lem. 54 Gia-cơ và Giăng là môn đồ Ngài, thấy vậy, nói rằng: Thưa Chúa, Chúa có muốn chúng tôi khiến lửa từ trên trời xuống thiêu họ chăng? 55 Nhưng Đức Chúa Jêsus xây lại quở hai người, (mà rằng: Các ngươi không biết tâm thần nào xui giục mình.) 56 Rồi Ngài cùng môn đồ đi qua làng khác.

Cần phải thể nào đặng theo Chúa

(Mat 8:19-22)

57 Đang khi đi đường, có kẻ thưa Ngài rằng: Chúa đi đâu tôi sẽ theo đó. 58 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ mà gối đầu.
59 Ngài phán cùng kẻ khác rằng: Ngươi hãy theo ta. Kẻ ấy thưa rằng: Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã. 60 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao giảng nước Đức Chúa Trời.
61 Có kẻ khác nữa thưa rằng: Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song xin cho phép tôi trước về từ giã người trong nhà tôi. 62 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời.

9

Yêsu Pơkiaŏ Ƀing Ding Kơna Pơjao Hyu Pơtô

(Mathiơ 10:5-15; Markôs 6:7-13)

1Giŏng anŭn, Yêsu iâu rai pluh-dua čô ding kơna pơjao laih anŭn brơi kơ ƀing gơñu hơmâo tơlơi dưi mơyang hăng tơlơi dưi kơtang kiăng kơ puh pơđuaĭ hĭ abih bang ƀing yang sat mơ̆ng mơnuih laih anŭn pơsuaih djŏp mơta tơlơi duăm ruă. 2Ñu pơkiaŏ ƀing gơ̆ tơbiă nao kiăng kơ hyu pơhaih tơlơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai laih anŭn pơsuaih ƀing duăm ruă. 3Ñu pơtă kơ ƀing gơ̆ tui anai, “Anăm djă̱ ba gơnam hơget gĕt ôh kơ bruă gih hyu anai: Anăm djă̱ ba ôh gai jra, kơdŭng gơnam, ƀañ tơpŭng, ƀôdah prăk kăk; kŏn djă̱ ba dua blah ao lơi. 4Sang hlơi ƀing gih dưi mŭt, dŏ hĭ bĕ pơ anŭn hlŏng truh kơ hrơi ƀing gih tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng plei anŭn. 5Samơ̆ pơ plei pă arăng ƀu ju̱m ôh ƀing gih, tơdang ƀing gih tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng plei anŭn, tơtŭh hĭ bĕ ƀruih lŏn mơ̆ng tơkai gih kiăng pơrơđah kar hăng tơlơi ngă gơ̆ng jơlan pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu yơh.”
6Giŏng anŭn, ƀing gơñu nao hyu amăng rĭm boh plei pơhaih tơlơi pơthâo hiam laih anŭn pơsuaih mơnuih ruă duăm amăng djŏp djang anih.

Khua Tring Hêrôd Antipas Rŭng Răng

(Mathiơ 14:1-12; Markôs 6:14-29)

7Hlak anŭn, Hêrôd Antipas, jing khua kwar Galilê, hơmư̆ abih bang tơlơi mơyang Yêsu hơmâo ngă laih, tui anŭn ñu rŭng răng biă mă yuakơ đơđa hơmâo mơnuih laĭ Yôhan pô ngă baptem hơmâo hơdip glaĭ laih, 8đơđa hơmâo mơnuih laĭ Êliyah hơmâo pơƀuh rai laih anŭn đơđa ƀing pơkŏn dơ̆ng laĭ sa čô pô pơala pơkŏn đưm đă adih hơmâo hơdip glaĭ dơ̆ng. 9Samơ̆ Hêrôd laĭ tui anai, “Kâo pô yơh hơmâo čŏng hĭ laih tơkuai Yôhan, tui anŭn hlơi jing pô anai lĕ? Kâo hơmâo hơmư̆ laih lu tơlơi hli̱ng hla̱ng biă mă kơ ñu.” Laih anŭn Hêrôd hơduah hơdră jơlan kiăng kơ bưp Yêsu yơh.

Yêsu Čem Rơma-Rơbâo Čô Mơnuih

(Mathiơ 14:13-21; Markôs 6:30-44; Yôhan 6:1-14)

10Tơdang ƀing ding kơna pơjao wơ̆t glaĭ laih, ƀing gơñu ruai glaĭ hăng Yêsu abih bang tơlơi ƀing gơñu hơmâo ngă laih. Giŏng anŭn, Yêsu ba hơjăn ƀing gơñu anăp nao pơ plei prŏng Bêtsaida. 11Samơ̆ tơdang ƀing mơnuih lu thâo kơ tơlơi anŭn, ƀing gơñu kiaŏ tui Yêsu laih anŭn Yêsu ju̱m čơkă ƀing gơñu yơh. Yêsu pơtô laĭ ƀing gơñu kơ tơlơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai laih anŭn pơsuaih hĭ abih bang mơnuih ruă duăm.
12Tơdang hrơi jĕ či kơnăm mơmŏt laih, pluh-dua čô ƀing ding kơna pơjao nao laĭ hăng Yêsu tui anai, “Ơ Nai ăh, brơi kơ ƀing ană plei anai glaĭ bĕ, tui anŭn ƀing gơñu dưi nao pơ tring trang plei pla jum dar kiăng kơ dưi hơduah gơnam ƀơ̆ng wơ̆t hăng anih đih pĭt, yuakơ pơ anai jing anih hông hang biă mă.”
13Samơ̆ Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing gih yơh pha brơi kơ ƀing gơ̆ gơnam ƀơ̆ng.”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Ƀing gơmơi kơnơ̆ng hơmâo rơma klŏ ƀañ tơpŭng anet hăng dua drơi akan anet đôč; wơ̆t tơdah ƀing gơmơi nao blơi gơnam ƀơ̆ng kơ abih bang ƀing mơnuih lu anai, ăt ƀu či djŏp mơ̆n.”
14Ƀing gơñu laĭ tui anŭn yuakơ pơ anih anŭn hơmâo jĕ truh kơ rơma-rơbâo čô ƀing đah rơkơi.
 Giŏng anŭn, Yêsu laĭ hăng ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Brơi kơ ƀing gơñu dŏ be̱r bĕ tui hăng tơpul, rĭm tơpul hơmâo kơplăh wăh rơmapluh čô.”
15Ƀing gơñu ngă tui hăng anŭn yơh laih anŭn brơi kơ abih bang ƀing mơnuih lu anŭn dŏ be̱r. 16Giŏng anŭn, Yêsu mă rơma klŏ ƀañ tơpŭng hăng dua drơi akan anŭn, angak đĭ pơ adai adih, bơni hơơč laih anŭn wŏk ƀañ tơpŭng; giŏng anŭn Ñu tŏ tui brơi nanao kơ ƀing ding kơna nao pơpha kơ ƀing mơnuih lu 17tơl abih bang mơnuih ƀơ̆ng trơi soh sel. Laih anŭn ƀing ding kơna duñ glaĭ čơđeh rơmeh ƀañ hăng akan rơbeh anŭn hơmâo truh kơ pluh-dua bai mơtam.

Pêtrôs Pơhaih Yêsu Jing Messiah

(Mathiơ 16:13-19; Markôs 8:27-29)

18Hơmâo sa hrơi, tơdang Yêsu dŏ hơjăn hăng ƀing ding kơna Ñu, Ñu iâu laĭ kơ Ơi Adai. Yêsu tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing mơnuih lu laĭ kơ Kâo jing hlơi lĕ?” 19Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Đơđa mơnuih laĭ Ih jing Yôhan pô ngă baptem, samơ̆ ƀing pơkŏn laĭ Ih jing pô pơala Êliyah pơƀuh rai yơh laih anŭn ƀing pơkŏn dơ̆ng laĭ Ih jing sa čô pô pơala pơkŏn đưm đă adih hơmâo hơdip glaĭ dơ̆ng.”
20Tui anŭn, Yêsu tơña ƀing gơñu tui anai, “Samơ̆ bơ kơ gih pô, ƀing gih laĭ Kâo jing hlơi lĕ?” Pêtrôs laĭ glaĭ tui anai, “Ih jing Messiah, jing Pô Ơi Adai ƀuăn pơkiaŏ rai yơh.”

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Kơ Tơlơi Ñu Či Ruă Nuă Hăng Djai

(Mathiơ 16:20-28; Markôs 8:30–9:1)

21Samơ̆ Yêsu pơkơđiăng ƀing gơñu ƀu dưi pơthâo tơlơi Ñu jing Messiah anŭn kơ hlơi pô ôh, 22laih anŭn Ñu laĭ dơ̆ng, “Kâo, jing Ană Mơnuih khŏm tŭ lu tơlơi ruă nuă laih anŭn ƀing kŏng tha, ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing nai pơtô tơlơi juăt či hơngah lui hĭ Kâo; laih anŭn dơ̆ng, arăng či pơdjai hĭ Kâo, samơ̆ klŏh kơ klâo hrơi Kâo či hơdip glaĭ dơ̆ng yơh.”
23Giŏng anŭn, Yêsu laĭ kơ abih bang ƀing gơñu tui anai, “Tơdah hlơi pô kiăng đuaĭ tui Kâo, brơi kơ ñu hơngah hĭ bĕ tơlơi ñu pô kiăng, glăm mă bĕ kơyâo bơrơkal ñu pô tŭ ruă nuă rĭm hrơi ƀôdah tŭ tơlơi djai laih anŭn đuaĭ tui Kâo. 24Kâo laĭ tui anŭn yuakơ hlơi pô kiăng pơklaih hĭ tơlơi hơdip ñu pô, sĭt ñu či rơngiă hĭ yơh, samơ̆ hlơi pô rơngiă hĭ tơlơi hơdip ñu pô kiăng kơ đuaĭ tui Kâo, ñu anŭn či pơklaih hĭ tơlơi hơdip ñu yơh. 25Hơget kơmlai kơ sa čô mơnuih dưi hơmâo lĕ, tơdah ñu dưi hơmâo abih bang lŏn tơnah samơ̆ răm rơngiă hĭ tơlơi hơdip ñu pô? 26Hlơi pô mlâo ƀu tŭ ju̱m Kâo hăng boh hiăp Kâo, Kâo, jing Ană Mơnuih, ăt či mlâo kơ pô anŭn mơ̆n tơdang Kâo či trŭn rai dơ̆ng amăng tơlơi ang yang Kâo laih anŭn amăng tơlơi ang yang Ama Kâo hrŏm hăng ƀing ling jang rơgoh hiam mơ̆n. 27Samơ̆ Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, hơmâo mơ̆n đơđa ƀing dŏ dơ̆ng pơ anai, jing ƀing ƀu či djai ôh hlâo kơ ƀing gơñu ƀuh Pơtao Dêh Čar Ơi Adai rai ƀơi lŏn tơnah anai.”

Drơi Jan Yêsu Pơhrih

(Mathiơ 17:1-8; Markôs 9:2-8)

28Kơplăh wăh sapăn hrơi tơdơi kơ Ñu pơtô tơlơi anŭn, Yêsu djă̱ ba Pêtrôs, Yôhan laih anŭn Yakơ, đĭ nao pơ sa boh bŏl čư̆ kiăng kơ iâu laĭ. 29Tơdang Ñu hlak dŏ iâu laĭ, ƀô̆ mơta Ñu pơplih hĭ phara laih anŭn sum ao Ñu jing hĭ bơngač kơmlă biă mă. 30Blĭp blăp mơtam hơmâo dua čô mơnuih pơhiăp hrŏm hăng Ñu, anŭn jing Môseh hăng pô pơala Êliyah mơ̆ng đưm hlâo adih yơh. 31Dua ƀing gơñu ăt pơƀuh rai amăng tơlơi bơngač ang yang laih anŭn pơhiăp kơ tơlơi Yêsu či đuaĭ hĭ mơ̆ng lŏn tơnah anai, jing tơlơi Ñu jĕ či ngă pơgiŏng hĭ amăng plei prŏng Yerusalaim yơh. 32Tơdang anŭn, Pêtrôs hăng dua čô ƀing gơyut ñu hlak dŏ pĭt, samơ̆ ƀing gơñu mơdưh hăng ƀuh tơlơi ang yang Yêsu wơ̆t hăng dua čô mơnuih anŭn hlak dŏ dơ̆ng pơhiăp hăng Yêsu. 33Tơdang dua čô anŭn đuaĭ hĭ laih mơ̆ng Yêsu, Pêtrôs laĭ hăng Ñu tui anai, “Ơ Khua ăh, hiam yơh kơ ƀing ta dŏ pơ anai; brơi bĕ ƀing gơmơi pơkra klâo boh nưh, sa kơ Ih, sa kơ Môseh laih anŭn sa kơ Êliyah,” samơ̆ Pêtrôs ƀu thâo hluh ôh hơget tơlơi ñu hlak pơhiăp.
34Tơdang ñu hlak dŏ pơhiăp kơ tơlơi anŭn, hơmâo kơthul rai go̱m hĭ ƀing gơñu laih anŭn ƀing gơñu huĭ biă mă yơh. 35Mông anŭn mơtam, hơmâo dơnai hiăp Ơi Adai mơ̆ng kơthul anŭn laĭ tui anai, “Anai yơh jing Ană Đah Rơkơi Kâo, jing Pô Kâo ruah mă laih. Pơđi̱ng hơmư̆ tui Ñu bĕ!”
36Tơdang dơnai hiăp anŭn pơhiăp giŏng laih, ƀing gơñu kơnơ̆ng ƀuh hơjăn Yêsu đôč dŏ pơ anŭn. Giŏng anŭn, ƀing gơñu dŏ rơiăt aka dưi ruai pơthâo hăng hlơi pô ôh hơget tơlơi ƀing gơñu hơmâo ƀuh laih amăng hrơi anŭn.

Yêsu Pơsuaih Sa Čô Čơđai Yang Sat Ngă

(Mathiơ 17:14-18; Markôs 9:14-27)

37Ƀơi hrơi tŏ tui anŭn, tơdang Yêsu hăng klâo čô ding kơna Ñu trŭn mơ̆ng bŏl čư̆ anŭn, hơmâo sa tơpul mơnuih lu rai bưp Yêsu. 38Anai nê, hơmâo sa čô đah rơkơi amăng ƀing mơnuih lu iâu kraih tui anai, “Ơ Nai ăh, kâo rơkâo Ih djru brơi ană đah rơkơi kâo đa, yuakơ hơjăn ñu yơh jing ană kâo. 39Yang sat juăt pơañăk gơ̆ nanao laih anŭn ur kraih tơl gơ̆ pơrơboh ia bah gơ̆. Yang sat pơruă gơ̆, pơtơnap hĭ gơ̆ nanao laih anŭn ñu kiăng pơrai hĭ gơ̆ nanao. 40Kâo hơmâo rơkâo laih ƀing ding kơna Ih kiăng kơ puh pơđuaĭ hĭ yang sat, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi ngă ôh.”
41Yêsu laĭ glaĭ kơ abih bang mơnuih tui anai, “Ơ ƀing ƀu đaŏ laih anŭn pran jua sat ƀai hơi, hơbĭn sui dơ̆ng Kâo či dŏ hăng ƀing gih laih anŭn ư̆ añ kơ ƀing gih lĕ?” Samơ̆ Ñu laĭ hăng ama gơ̆ tui anai, “Ba rai bĕ ană ih pơ anai.”
42Tơdang ană pô anŭn hlak rai, yang sat pơrơbuh hĭ gơ̆ ƀơi lŏn hăng pơañăk gơ̆, samơ̆ Yêsu kơhŏh kơ yang sat, pơsuaih hĭ čơđai anŭn laih anŭn Ñu jao glaĭ čơđai anŭn kơ ama gơ̆ yơh. 43Abih bang mơnuih le̱ng kơ dŏ hli̱ng hla̱ng soh sel kơ bruă mơsêh mơyang Ơi Adai.

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Dơ̆ng Kơ Tơlơi Djai Ñu

(Mathiơ 17:22, 23; Markôs 9:30-32)

 Tơdang abih bang ƀing mơnuih lu hlak dŏ hli̱ng hla̱ng kơ rĭm bruă Yêsu ngă, Yêsu laĭ kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, 44“Brơi kơ ƀing gih hơmư̆ pơñen bĕ kơ tơlơi Kâo či laĭ anai: Arăng či pơblư̆ jao lui hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih, kơ tơlơi dưi mơnuih mơnam, jing ƀing pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo.” 45Samơ̆ ƀing ding kơna Yêsu ƀu thâo hluh ôh kơ tơlơi Ñu hơmâo laĭ laih anai. Yuakơ Yêsu pơdŏp hĭ tơlơi anŭn mơ̆ng ƀing gơñu, tui anŭn ƀing gơñu ƀu thâo hluh ôh. Laih anŭn dơ̆ng, ƀing gơñu kŏn khĭn tơña Yêsu lơi kơ tơlơi anŭn.

Hlơi Pô Yom Pơphan Hloh

(Mathiơ 18:1-5; Markôs 9:33-37)

46Ƀing ding kơna čơdơ̆ng pơrơjăh hăng tơdruă gơñu kơ tơlơi hlơi pô jing yom pơphan hloh amăng ƀing gơñu. 47Samơ̆ tơdang Yêsu thâo krăn tơlơi pơmĭn amăng jua pơmĭn gơñu, Ñu pŭ̱ sa čô čơđai hăng brơi gơ̆ dŏ jĕ ƀơi Ñu, 48laih anŭn Ñu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Hlơi pô tŭ ju̱m čơđai anai yuakơ gơ̆ đuaĭ tui Kâo, sĭt ñu anŭn tŭ ju̱m Kâo yơh, laih anŭn hlơi pô tŭ ju̱m Kâo, ñu anŭn ăt tŭ ju̱m mơ̆n Pô pơkiaŏ rai kâo. Yuakơ hlơi pô luă gŭ hloh amăng abih bang ƀing gih, ñu anŭn yơh jing pô yom pơphan hloh kơ abih bang.”

Ƀing Đuaĭ Tui Yêsu

(Markôs 9:38-40)

49Yôhan laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Khua, ƀing gơmơi ƀuh sa čô mơnuih puh pơđuaĭ hĭ yang sat hăng anăn Ih, tui anŭn ƀing gơmơi khă hĭ ñu yuakơ ñu ƀu đuaĭ tui ƀing ta ôh.”
50Samơ̆ Yêsu laĭ kơ Yôhan tui anai, “Anăm khă hĭ ñu ôh, yuakơ hlơi pô ƀu pơkơdơ̆ng glaĭ ôh hăng ƀing gih, ñu anŭn dŏ gah kơ ƀing gih yơh.”

Sa Boh Plei Ƀing Samaria Ƀu Tŭ Ju̱m Yêsu

51Tơdang hrơi mông Ơi Adai či pŭ̱ đĭ Yêsu glaĭ pơ adai adih jĕ truh laih, Yêsu khưp kiăng khŏm nao pơ plei prŏng Yerusalaim yơh, 52tui anŭn Ñu pơkiaŏ ƀing ding kơna Ñu nao hlâo kơ Ñu kiăng kơ mŭt nao pơ sa boh plei ƀing Samaria kiăng kơ prap rơmet anih kơ Yêsu. 53Samơ̆ ƀing ană plei anŭn ƀu tŭ ju̱m Yêsu ôh, yuakơ ƀing gơñu thâo Yêsu či nao pơ plei Yerusalaim. 54Tơdang ƀing ding kơna Ñu Yakơ hăng Yôhan ƀuh tơlơi anŭn, ƀing gơñu laĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, Ih kiăng mơ̆ kơ ƀing gơmơi iâu apui lê̆ mơ̆ng adai adih kiăng kơ čuh pơrai hĭ abih bang ƀing gơñu?” 55Samơ̆ Yêsu wir glaĭ ƀuăh khă kơ ƀing gơñu. 56Giŏng anŭn, ƀing gơñu nao pơ sa boh plei pơkŏn dơ̆ng.

Tơlơi Pơsăn Drơi Đuaĭ Tui Yêsu

(Mathiơ 8:19-22)

57Tơdang ƀing gơñu rơbat kơtuai jơlan, hơmâo sa čô mơnuih laĭ hăng Yêsu tui anai, “Kâo či đuaĭ tui Ih yơh; wơ̆t tơdah pơpă Ih nao kâo či nao yơh.”
58Yêsu pơkơđiăng kơ ñu tui anai, “Mơja hơmâo amăng, čim brĭm pơ adai hơmâo hruh, samơ̆ Kâo, jing Ană Mơnuih, ƀu hơmâo ôh anih kiăng kơ dŏ.”
59Yêsu laĭ kơ pô pơkŏn tui anai, “Đuaĭ tui kâo bĕ.”
 Samơ̆ pô anŭn laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, brơi kâo nao dơ̱r ama kâo hlâo amơĭ.”
60Samơ̆ Yêsu laĭ kơ pô anŭn tui anai, “Brơi kơ ƀing djai dơ̱r mă bĕ ƀing djai gơñu pô, samơ̆ gah kơ ih, nao pơhaih bĕ tơlơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai.”
61Pô pơkŏn laĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, kâo či đuaĭ tui ih yơh, samơ̆ blung hlâo brơi kâo glaĭ čuă ngui sang anŏ kâo sui ƀiă laih anŭn pơhiăp pơčơlah hăng ƀing gơñu amơĭ.”
62Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Hlơi pô djă̱ laih tơngan ñu ƀơi wăng kai samơ̆ ăt dŏ lăng glaĭ gah rŏng, pô anŭn ƀu năng lăp ôh kơ tơlơi nao pơhaih tơlơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai.”