1

Ba bài giảng của Môi-se

(Từ đoạn 1 đến đoạn 30)

Bài giảng thứ nhứt của Môi-se nhắc lại các ơn Chúa đã làm trong đồng vắng

1 Nầy là lời Môi-se nói cho cả Y-sơ-ra-ên, bên kia sông Giô-đanh, tại đồng vắng, trong đồng bằng, đối ngang Su-phơ, giữa khoảng Pha-ran và Tô-phên, La-ban, Hát-sê-rốt, và Đi-xa-háp. 2 Từ Hô-rếp tới Ca-đe-Ba-nê-a, bởi đường núi Sê-i-rơ, đi mười một ngày đường. 3 Nhằm năm bốn mươi, ngày mồng một tháng mười một, Môi-se nói cùng dân Y-sơ-ra-ên mọi điều mà Đức Giê-hô-va đã biểu người phải nói cùng họ. 4 Ấy là sau khi người đã đánh giết Si-hôn, vua dân A-mô-rít ở tại Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san, ở tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i.
5 Tại bên kia sông Giô-đanh, trong xứ Mô-áp, Môi-se khởi giảng giải luật pháp nầy mà rằng: 6 Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta có phán cùng chúng ta tại Hô-rếp mà rằng: Các ngươi kiều ngụ trong núi nầy đã lâu quá; 7 hãy vòng lại và đi đến núi dân A-mô-rít, cùng đến các miền ở gần bên, tức là đến nơi đồng bằng, lên núi, vào xứ thấp, đến miền nam, lên mé biển, vào xứ dân Ca-na-an và Li-ban, cho đến sông lớn, là sông Ơ-phơ-rát. 8 Kìa, ta phó xứ nầy cho các ngươi! Hãy vào và chiếm lấy xứ mà Đức Giê-hô-va đã thề ban cho tổ phụ các ngươi, là Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, cùng cho con cháu của họ.
9 Trong lúc đó ta có nói cùng các ngươi rằng: Một mình ta không sức đủ cai trị các ngươi. 10 Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã gia thêm các ngươi, kìa ngày nay, các ngươi đông như sao trên trời. 11 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi khiến các ngươi thêm lên gấp ngàn lần và ban phước cho, y như Ngài đã phán cùng các ngươi. 12 Một mình ta làm thế nào mang lấy trách nhiệm và gánh nặng về điều tranh tụng của các ngươi? 13 Hãy chọn trong mỗi chi phái các ngươi những người khôn ngoan, thông sáng, có tiếng, và ta sẽ lập họ lên làm quan trưởng các ngươi. 14 Các ngươi có đáp rằng: Việc người toan làm thật tốt thay. 15 Bấy giờ, ta chọn lấy những người quan trưởng của các chi phái, là những người khôn ngoan, có tiếng, lập lên làm quan tướng các ngươi, hoặc cai ngàn người, hoặc cai trăm người, hoặc cai năm mươi người, hoặc cai mười người, và làm quản lý trong những chi phái của các ngươi.
16 Trong lúc đó, ta ra lịnh cho những quan xét các ngươi rằng: Hãy nghe anh em các ngươi, và lấy công bình mà xét đoán sự tranh tụng của mỗi người với anh em mình, hay là với khách ngoại bang ở cùng người. 17 Trong việc xét đoán, các ngươi chớ tư vị ai; hãy nghe người hèn như nghe người sang, đừng có sợ ai, vì sự xét đoán thuộc về Đức Chúa Trời. Phàm việc nào lấy làm rất khó cho các ngươi, hãy đem đến trước mặt ta thì ta sẽ nghe cho. 18 Vậy, trong lúc đó, ta có truyền cho các ngươi mọi điều mình phải làm.
19 Đoạn, bỏ Hô-rếp, chúng ta trải ngang qua đồng vắng minh mông và gớm ghê mà chúng ta thấy kia, hướng về núi dân A-mô-rít, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã phán dặn; rồi chúng ta đến Ca-đe-Ba-nê-a.
20 Bấy giờ, ta nói cùng các ngươi rằng: Các ngươi đã đến núi của dân A-mô-rít mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ban cho chúng ta. 21 Kìa, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi phó xứ nầy cho ngươi; hãy đi lên, chiếm làm sản nghiệp, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi đã phán cùng ngươi; chớ ái ngại, chớ kinh khủng. 22 Các ngươi hết thảy bèn lại gần ta và nói rằng: Hãy sai những người đi trước chúng tôi, đặng do thám xứ và chỉ bảo về đường sá nào chúng tôi phải lên, và các thành chúng tôi phải vào. 23 Lời nầy đẹp lòng ta; ta chọn mười hai người trong các ngươi, tức mỗi chi phái một người. 24 Mười hai người đó ra đi, lên núi, đi đến khe Ếch-côn và do thám xứ. 25 Họ hái cầm trong tay mình những trái cây xứ đó, đem về cho chúng ta; thuật lại cùng chúng ta rằng: Xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ban cho thật là tốt. 26 Nhưng các ngươi không muốn lên đó, và đã bội nghịch mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, 27 lằm bằm trong trại mình mà rằng: Ấy bởi Đức Giê-hô-va ghét chúng ta, nên khiến chúng ta ra xứ Ê-díp-tô, đặng phó chúng ta vào tay dân A-mô-rít, để tiêu diệt đi. 28 Chúng ta sẽ đi lên đâu? Anh em chúng ta làm cho chúng ta tiêu gan vì nói rằng: Ấy là một dân đông hơn và cao lớn hơn chúng ta; ấy là những thành lớn và kiên cố đến tận trời; vả lại, tại đó, chúng tôi có thấy những con cháu của dân A-na-kim.
29 Nhưng ta nói cùng các ngươi rằng: Chớ ái ngại và chớ sợ sệt gì. 30 Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đi trước, chánh Ngài sẽ chiến cự cho các ngươi, như Ngài đã thường làm trước mắt các ngươi tại xứ Ê-díp-tô, 31 và trong đồng vắng --- là nơi ngươi thấy rằng trọn dọc đường ngươi đi, cho đến khi tới chốn nầy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã bồng ngươi như một người bồng con trai mình. 32 Dầu vậy, các ngươi vẫn không tin Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, 33 là Đấng đi trước dẫn các ngươi trên đường, để tìm cho các ngươi một nơi đóng trại; ban đêm trong đám lửa, ban ngày trong đám mây, đặng chỉ con đường các ngươi phải đi.
34 Bấy giờ, Đức Giê-hô-va nghe tiếng của lời nói các ngươi, bèn nổi giận và thề rằng: 35 Chẳng một ai của dòng dõi gian ác nầy sẽ thấy xứ tốt đẹp mà ta đã thề ban cho tổ phụ các ngươi, 36 ngoại trừ Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê. Người sẽ thấy xứ đó; và ta sẽ ban cho người cùng con cháu người xứ mà người đã trải qua, bởi vì người có theo Đức Giê-hô-va cách trung tín trọn vẹn. 37 Lại, Đức Giê-hô-va vì cớ các ngươi cũng nổi giận cùng ta, mà rằng: Ngươi cũng vậy, sẽ không vào đó đâu. 38 Giô-suê, con trai Nun, là đầy tớ ngươi, sẽ được vào đó. Hãy làm cho người vững lòng, vì ấy là người sẽ khiến dân Y-sơ-ra-ên nhận lấy xứ nầy làm sản nghiệp. 39 Những con trẻ của các ngươi mà các ngươi đã nói rằng sẽ thành một miếng mồi, và những con trai các ngươi hiện bây giờ chưa biết điều thiện hay là điều ác, sẽ vào xứ đó. Ta sẽ ban cho chúng nó xứ nầy làm sản nghiệp; 40 nhưng các ngươi hãy trở về, đi đến đồng vắng về hướng Biển Đỏ.
41 Lúc đó, các ngươi bèn đáp cùng ta mà rằng: Chúng tôi đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va; chúng tôi sẽ đi lên chiến trận và làm mọi điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi đã phán dặn. Mỗi người trong các ngươi nịt binh khí và toan dại dột đi lên núi. 42 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng ta rằng: Hãy nói cùng dân sự: Chớ đi lên và chớ chiến trận, vì ta không ngự giữa các ngươi; e các ngươi bị quân thù nghịch đánh bại.
43 Ta có thuật lại những lời nầy, nhưng các ngươi không nghe ta, nghịch mạng của Đức Giê-hô-va, đầy sự kiêu ngạo, kéo đi lên núi. 44 Bấy giờ, người A-mô-rít ở trong núi nầy, đi ra đón và đuổi các ngươi như thể đoàn ong, đánh bại các ngươi tại Sê-i-rơ cho đến Họt-ma. 45 Khi trở về, các ngươi có khóc lóc trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng Đức Giê-hô-va không lắng tai và chẳng khứng nghe tiếng của các ngươi. 46 Ấy vì thế nên các ngươi ở tại Ca-đe lâu ngày, nhiều ngày biết dường bao!

1

Nỡm Santoiq

1Saráq nâi bữn máh santoiq Môi-se atỡng cũai I-sarel, bo alới ỡt tâng ntốq aiq yáng angia mandang loŏh crỗng Yôr-dan, pỡ ntốq Supha. Alới ỡt bân mpứng dĩ bar coah máh vil neq: muoi coah la vil Paran, cớp muoi coah ễn la vil Tô-phêl, Laban, Hasê-rôt, cớp Di-sahap. 2Rana tễ cóh Si-nai toâq pỡ vil Cadet Barnia; khân pỡq pha máh dũal cớp cóh cruang Ê-dôm, cóq pỡq nheq muoi chít la muoi tangái. 3Tangái muoi, casâi muoi chít la muoi, cumo pỗn chít vớt cũai I-sarel loŏh tễ cruang Ê-yip-tô, Môi-se atỡng loah máh cũai proai I-sarel tễ dũ ramứh ca Yiang Sursĩ khoiq atỡng án dŏq yỗn tỗp alới táq puai. 4Ranáq nâi cỡt la khoiq vớt Yiang Sursĩ chíl riap Si-hôn, puo tỗp Amô-rit, án ca sốt vil Hê-sabôn; cớp Oc, puo tỗp Basan, án ca sốt tâng vil At-tarot cớp vil Ê-darê. 5Bo tỗp alới ỡt coah angia mandang loŏh crỗng Yôr-dan tâng cutễq tỗp Mô-ap, pỡ ntốq ki Môi-se mbỡiq atỡng tỗp alới tễ phễp rit cớp máh ŏ́c Yiang Sursĩ patâp.
 Án pai neq:
6“Bo hái noâng ỡt pỡ cóh Si-nai, Yiang Sursĩ, la Ncháu hái, án khoiq atỡng neq: ‘Tỗp anhia khoiq ỡt dũn lứq chơ tâng cóh nâi. 7Sanua cóq anhia yuoh nheq ntốq anhia ỡt, chơ dễq ỡt pỡ ntốq canŏ́h ễn. Cóq anhia pỡq chu máh dũal cớp cóh tỗp Amô-rit, chơ pỡq chũop máh ntốq mpễr ki la neq: Phong crỗng Yôr-dan, ntốq cóh, ntốq tapín, ntốq aiq coah angia pưn, cớp tor dỡq mưt Mê-di-tarian. Ngkíq cóq anhia pỡq pláh cu ntốq tâng cutễq cũai Cana-an, chơ pỡq luat cóh Lê-banôn toau toâq crỗng Ơ-phơ-rat ca la‑a lứq. 8Nheq tữh cutễq nâi cứq, Yiang Sursĩ khoiq par‑ữq ễ chiau yỗn achúc achiac anhia la A-praham, I-sac, cớp Yacốp, dếh máh con châu alới hỡ. Cóq anhia mut cheng ndỡm.’”

Môi-se Chóh Máh Cũai Sốt

9Môi-se atỡng cũai proai neq: “Bo tỗp hái noâng ỡt pỡ cóh Si-nai, cứq atỡng anhia neq: ‘Ranáq ayông tỗp anhia la ntâng lứq, cứq tỡ têq táq ống muoi noaq sâng. 10Yiang Sursĩ, Ncháu anhia, táq yỗn anhia cỡt rứh rưong sa‑ữi lứq, samoât mantỗr tâng paloŏng. 11Sễq Yiang Sursĩ, la Ncháu achúc achiac anhia, táq yỗn anhia bữn con châu cỡt rứh sa‑ữi ngin trỗ ễn, cớp yỗn anhia bữn máh ŏ́c bốn samoât án khoiq par‑ữq chơ! 12Nŏ́q cứq rơi roap mpỗl nâi ống muoi noaq cứq sâng dŏq tamprưo tễ máh ranáq rasuon racloaq tỡ la máh ranáq túh coat tỗp anhia? 13Ngkíq cóq anhia rưoh ĩt máh samiang tễ dũ tỗp, án ca roan rangoaiq, án ca dáng, cớp cơi rien hỡ. Chơ cứq ễ chóh alới yỗn cỡt cũai sốt anhia.’ 14Anhia khoiq pruam chơ tễ ranáq nâi. 15Yuaq ngkíq, cứq chóh máh cũai ca roan rangoaiq cớp bữn dáng sa‑ữi chơ, la cũai ca anhia khoiq rưoh tễ dũ tỗp. Cớp cứq yỗn alới nhêng salĩq anhia. Cứq yỗn muoi noaq cỡt sốt muoi ngin náq, muoi noaq cỡt sốt muoi culám náq, cớp muoi noaq cỡt sốt sỡng chít tỡ la muoi chít náq. Hỡn tễ nâi ễn, cứq noâng chóh máh cũai sốt canŏ́h hỡ tễ tỗp anhia.
16“Bo ki, cứq patâp máh cũai sốt neq: ‘Cóq anhia tamứng yỗn samoât tễ máh ranáq ralỗih ratáq tâng mpứng dĩ máh cũai proai anhia. Cóq anhia parchĩn ralỗih ki yỗn pĩeiq lứq, tam ranáq parchĩn ki la cũai tễ tỗp anhia, tỡ la cũai tễ tỗp canŏ́h ca ỡt cớp anhia. 17Chỗi bễng cũai aléq; cóq anhia parchĩn dũ náq cũai yỗn pĩeiq tâng rit, tam cũai ki la noau. Chỗi ngcŏh cũai aléq, yuaq Yiang Sursĩ rưoh anhia dŏq parchĩn parnai. Khân ranáq ntrớu ma coat ễ parchĩn, cóq anhia dững ranáq ki pỡ cứq; chơ cứq ễn parchĩn ŏ́c ki.’ 18Ma bo ki toâp, cứq khoiq tĩeih atỡng máh ranáq canŏ́h cóq anhia táq puai.”

Môi-se Atỡng Tễ Tỗp Ca Pỡq Tutuaiq

19“Tỗp hái khoiq táq tapun máh ŏ́c Yiang Sursĩ, la Ncháu tỗp hái, khoiq ớn. Tỗp hái loŏh tễ cóh Si-nai cớp pỡq pha ntốq aiq la‑a mữt-mữ cớp o ễ ngcŏh, tâng rana pỡq chu ntốq máh dũal cớp cóh tỗp Amô-rit. Bo tỗp hái toâq pỡ vil Cadet Barnia, 20cứq khoiq atỡng anhia neq: ‘Sanua anhia khoiq toâq pỡ máh dũal cớp cóh tỗp Amô-rit chơ, la cutễq Yiang Sursĩ, la Ncháu tỗp hái cớp Ncháu achúc achiac hái, ễ chiau yỗn tỗp hái. 21Nhêng chu cutễq tíh! Cóq anhia pỡq cheng ĩt nheq, samoât án khoiq ớn nhũang chơ. Chỗi clơng cớp chỗi ngcŏh ntrớu.’
22“Ma anhia toâq atỡng cứq neq: ‘Yỗn hái ớn máh cũai samiang loŏh pỡq tutuaiq nhêng voai cutễq ki, dŏq alới têq atỡng hái rana léq khễ mut cheng ĩt, cớp máh vil ki la nŏ́q.’
23“Tễ ranáq ki cứq hữm o tê yỗn hái táq. Yuaq ngkíq, cứq rưoh ĩt muoi chít la bar náq cũai samiang tễ muoi tỗp muoi noaq. 24Tỗp alới pỡq chu máh dũal cớp cóh, chơ pỡq chu avúng Et-côn cớp tutuaiq nhêng. 25Tỗp alới dững achu palâi aluang tễ cutễq ki, cớp atỡng tễ cutễq ca Yiang Sursĩ, la Ncháu hái, ễ chiau yỗn hái, la cutễq phốn phuor o lứq.
26“Ma anhia lớn-sarlớn chóq Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, cớp anhia tỡ ễq pỡq chu cutễq ki. 27Anhia manoaq bubéq-bubưp chóq manoaq neq: ‘Yiang Sursĩ kêt tỗp hái. Án dững aloŏh tỗp hái tễ cruang Ê-yip-tô la cỗ ễ chiau yỗn tỗp Amô-rit nâi cachĩt táh nheq tỗp hái. 28Choam hái ễ pỡq táq ntrớu chu cutễq ki? Yuaq cũai ca pỡq tutuaiq atỡng tễ cũai tâng cutễq ki tỗ chác moang ntoâr cớp rêng lứq. Tỗp alới ỡt tâng máh vil ca bữn viang sarỡih toâq paloŏng. Alới hữm dếh cũai Anac la ỡt ntốq ki tê.’
29“Ma cứq ta‑ỡi neq: ‘Chỗi ngcŏh máh cũai ki. 30Yuaq Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, án toâp ayông anhia, cớp chíl alới pláih anhia, samoât anhia khoiq hữm chơ án táq tâng cruang Ê-yip-tô 31cớp tâng ntốq aiq. Anhia khoiq hữm án dững anhia toâq pỡ ntốq nâi plot ien, samoât mpoaq peq ca‑ữ con samiang.’ 32Cứq khoiq catoaih atỡng anhia chơ, ma anhia noâng tỡ bữn sa‑âm Yiang Sursĩ, 33án ca chuaq ntốq yỗn anhia ỡt dỡ. Tâng sadâu án pỡq nhũang anhia na sapom ũih; tâng tangái án pỡq nhũang anhia na sapom ramứl, dŏq sadoi rana yỗn anhia pỡq.”

Môi-se Atỡng Tễ Yiang Sursĩ Manrap Tỗp I-sarel

34“Yiang Sursĩ khoiq sâng anhia pai tỡ o tễ án. Yuaq ngkíq, án cutâu mứt cớp án atỡng anhia yỗn dáng raloaih lứq neq: 35‘Cũai loâi ariang anhia tỡ têq mut ỡt pỡ cutễq phốn phuor ca cứq khoiq par‑ữq ễ chiau yỗn achúc achiac anhia. 36Ma ống Calep con samiang Yê-phunê sâng bữn mut, yuaq án táq puai cứq nheq tễ mứt pahỡm, cớp cứq ễ chiau yỗn án dếh tŏ́ng toiq án máh cutễq ca án khoiq pỡq tutuaiq.’ 37Cỗ tian anhia, yuaq Yiang Sursĩ cutâu mứt chóq cứq hỡ, cớp pai neq: ‘Môi-se ơi! Mới la tỡ têq bữn mut tê chu cutễq ki. 38Ma Yô-sũa con samiang Nun, án ca rachuai ranáq mới, án lứq cỡt cũai ayông tỗp I-sarel yỗn têq cheng bữn cutễq ki. Yuaq ngkíq, cóq mới rachuai án.’
39“Chơ Yiang Sursĩ pai chóq hái dũ náq neq: ‘Anhia dốq pai con châu anhia cỡt samoât prán yỗn cũai par‑ũal. Ma lứq samoât, carnễn ki ca tỡ yũah dáng ŏ́c pĩeiq cớp ŏ́c lôih, alới ki bữn mut tâng cutễq nâi, cớp cứq chiau cutễq nâi yỗn alới ndỡm. 40Ma máh cũai proai ariang anhia cóq píh loah pỡ ntốq aiq, puai rana pỡq chu dỡq mưt Cusâu.’
41“Tỗp anhia ta‑ỡi neq: ‘Môi-se ơi! Tỗp hếq khoiq táq lôih chóq Yiang Sursĩ chơ. Ma sanua hếq ễ pỡq chíl samoât Yiang Sursĩ khoiq ớn hếq.’ Chơ dũ náq tễ tỗp anhia thrũan loŏh ễ rachíl, ma anhia chanchớm khễ lứq mut chíl ntốq máh dũal cớp cóh ki.
42“Ma Yiang Sursĩ atỡng cứq neq: ‘Atỡng alới chỗi pỡq chíl, yuaq cứq tỡ bữn ỡt cớp alới, cớp cũai par‑ũal alới lứq chíl riap.’ 43Cứq khoiq atỡng anhia chơ, ma anhia tỡ bữn tamứng, cớp anhia lớn-sarlớn níc, chơ to moat ễ pỡq chu máh dũal cớp cóh ki. 44Chơ tỗp Amô-rit ca ỡt tâng máh dũal cớp cóh, alới loŏh chíl tỗp anhia, cỡt samoât khĩal pâr aloŏh tễ sóh partữ tháng loŏh sũiq brốh anhia. Tỗp alới rapuai cachĩt anhia toau toâq pỡ vil Hor-ma tâng cruang Ê-dôm. 45Moâm ki anhia arô Yiang Sursĩ yỗn toâq rachuai anhia, ma án tỡ bữn tamứng, cớp tỡ bữn rachuai anhia tễ muoi ramứh ntrớu. 46Yuaq ngkíq, anhia ỡt tâng vil Cadet dũn lứq.”