7

Những ngày kiêng ăn

(Từ đoạn 7 đến đoạn 8)

Những ngày kiêng ăn. – Lời khuyên và hứa

1 Xảy ra trong năm thứ tư vua Đa-ri-út, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Xa-cha-ri nhằm ngày mồng bốn tháng chín, là tháng Kít-lêu. 2 Khi ấy những người ở Bê-tên có sai Sa-rết-se và Rê-ghem-Mê-léc cùng những kẻ theo họ đặng nài xin ơn Đức Giê-hô-va, 3 và nói cùng các thầy tế lễ của nhà Đức Giê-hô-va vạn quân, và cùng các đấng tiên tri mà rằng: Tôi có nên khóc lóc và biệt mình riêng ra trong tháng năm như tôi đã làm trong nhiều năm chăng?
4 Bấy giờ có lời của Đức Giê-hô-va vạn quân phán cùng ta rằng: 5 Hãy nói cùng cả dân sự trong đất và cùng các thầy tế lễ mà rằng: Các ngươi kiêng ăn và khóc lóc trong tháng năm tháng bảy đã bảy mươi năm nay, có phải các ngươi vì ta, thật là vì ta, mà giữ lễ kiêng ăn đó chăng? 6 Khi các ngươi uống và ăn, há chẳng phải vì mình mà ăn, vì mình mà uống hay sao? 7 Ấy há chẳng phải những lời mà Đức Giê-hô-va cậy các đấng tiên tri đời trước rao ra, khi Giê-ru-sa-lem và những thành chung quanh nó có dân cư được thạnh vượng, và khi phương nam và đồng bằng có dân cư hay sao?
8 Đoạn, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Xa-cha-ri, mà rằng: 9 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy làm điều gì thật công bình, và ai nấy khá lấy sự nhân từ, thương xót đối với anh em mình; 10 chớ ức hiếp đàn bà góa, hoặc kẻ mồ côi, hoặc người trú ngụ, hay là kẻ nghèo khó, và ai nấy chớ mưu một sự dữ nào trong lòng nghịch cùng anh em mình. 11 Nhưng chúng nó không chịu nghe, xây vai lại đằng sau, và bịt lỗ tai lại đặng không nghe. 12 Chúng nó làm cho lòng mình cứng như đá kim cương, để không nghe luật pháp và những lời mà Đức Giê-hô-va vạn quân đã bởi Thần Ngài cậy các tiên tri đời xưa sai đến; vậy nên có sự thạnh nộ lớn lắm đến từ Đức Giê-hô-va vạn quân. 13 Xảy ra như khi người kêu, chúng nó không chịu nghe, thì khi chúng nó kêu, ta cũng không nghe, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. 14 Ta đã làm tan tác chúng nó như bởi một cơn gió lốc trong khắp các nước mà chúng nó chưa từng biết; vậy đất đã trở nên hoang vu sau chúng nó, đến nỗi không ai trải qua hoặc trở về; vì chúng nó đã làm cho đất vui thích thành ra hoang vu.

7

Klei Ƀuah kơ Klei Kăm Ƀơ̆ng Huă Amâo Sĭt Suôr

1Ti thŭn tal pă mtao Darius kiă kriê, Yêhôwa blŭ kơ Y-Sakari hruê pă, mlan dua păn, jing mlan Kislu. 2Phung ƀuôn sang Ƀêthel tiŏ nao leh Y-Sarêser leh anăn Y-Regê-Mêlek mbĭt hŏng phung mnuih digơ̆, čiăng kwưh klei pap mơ̆ng Yêhôwa, 3leh anăn čiăng êmuh kơ phung khua ngă yang sang Yêhôwa kơ phung kahan leh anăn kơ phung khua pô hưn êlâo, “Djŏ mơ̆ kâo srăng kơŭ kyăm leh anăn kăm ƀơ̆ng huă ti mlan êma, msĕ si kâo ngă leh êjai lu thŭn?” 4Leh anăn Yêhôwa kơ phung kahan blŭ kơ kâo, 5“Êmuh bĕ kơ jih jang phung ƀuôn sang hlăm čar leh anăn kơ phung khua ngă yang, ‘Tơdah diih kăm ƀơ̆ng huă leh anăn kơŭ kyăm hlăm mlan êma leh anăn mlan kjuh êjai kjuh pluh thŭn anei, djŏ mơ̆ kyua kâo diih kăm ƀơ̆ng huă anăn? 6Leh anăn tơdah diih ƀơ̆ng huă leh anăn mnăm, amâo djŏ hĕ diih ƀơ̆ng huă leh anăn mnăm kyua diih pô? 7Amâo djŏ hĕ klei anei Yêhôwa blŭ hưn leh kơ phung khua pô hưn êlâo ênuk mphŭn dô, tơdah ƀuôn Yêrusalem mâo leh mnuih dôk leh anăn mâo klei čăt đĭ lu, mbĭt hŏng ƀuôn prŏng jŭm dar ñu, leh anăn čar Dhŭng wăt lăn dap mâo mnuih dôk leh?’ ”

Mâo Klei Jing Mnă Kyua Klei Amâo Gưt Asăp

8Yêhôwa lŏ blŭ kơ Y-Sakari, lač: 9“Snei Yêhôwa kơ phung kahan lač, ‘Phat kđi bĕ hŏng klei djŏ; bi êdah klei êmhač leh anăn klei pap hdơ̆ng grăp čô ayŏng adei ñu. 10Đăm ktư̆ juă ôh mniê djiê ung, anak êrĭt, pô dôk jưh bhiâo hlăm čar, leh anăn pô ƀun ƀin; leh anăn đăm brei ôh sa čô hlăm phung diih mĭn hlăm ai tiê ñu čiăng ngă klei jhat kơ ayŏng adei ñu.’ 11Ƀiădah diñu hngah amâo čiăng dôk hmư̆ ôh, leh anăn kkui rŏng, kăt ƀăng knga diñu čiăng đăm diñu dưi hmư̆ ôh. 12Diñu bi khăng hĕ ai tiê diñu msĕ si boh tâo, huĭdah diñu srăng hmư̆ klei bhiăn leh anăn klei blŭ mơ̆ng Yêhôwa kơ phung kahan ñu mơĭt leh hŏng Mngăt Myang ñu hŏng phung khua pô hưn êlâo mphŭn dô. Kyuanăn Yêhôwa kơ phung kahan mâo klei ngêñ prŏng. 13‘Tơdah kâo iêu, diñu amâo dôk hmư̆ ôh; snăn mơh diñu iêu, leh anăn kâo amâo dôk hmư̆ ôh.’ Yêhôwa kơ phung kahan lač. 14‘Leh anăn kâo bi bra đuĕ diñu hŏng angĭn đrŭng ti krah jih jang găp djuê mnuih diñu amâo tuôm thâo ôh. Snăn čar diñu lui jing ênguôl ti tluôn diñu tơl amâo mâo sa čô êrô hiu ôh. Snăn diñu brei lăn čar siam jing hĕ ênguôl.’ ”