15

V. Về sự sống lại

(15:1-58)

Lẽ chắc chắn về sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ

1 Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin lành mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy, cùng đứng vững vàng trong đạo ấy, 2 và nhờ đạo ấy, anh em được cứu rỗi, miễn là anh em giữ lấy y như tôi đã giảng cho; bằng không, thì anh em dầu có tin cũng vô ích. 3 Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh thánh; 4 Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh thánh; 5 và Ngài đã hiện ra cho Sê-pha, sau lại hiện ra cho mười hai sứ đồ. 6 Rồi đó, cùng trong một lần, Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em xem thấy, phần nhiều người trong số ấy hiện bây giờ còn sống, nhưng có mấy người đã ngủ rồi. 7 Đoạn, Ngài hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho các sứ đồ. 8 Rốt lại, sau những người ấy, Ngài cũng hiện ra cho tôi xem, như cho một thai sanh non vậy. 9 Vì tôi là rất hèn mọn trong các sứ đồ, không đáng gọi là sứ đồ, bởi tôi đã bắt bớ Hội thánh của Đức Chúa Trời. 10 Nhưng tôi nay là người thể nào, là nhờ ơn Đức Chúa Trời, và ơn Ngài ban cho tôi cũng không phải là uổng vậy. Trái lại, tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi. 11 Ấy vậy, dầu tôi, dầu các người khác, đó là điều chúng tôi giảng dạy, và là điều anh em đã tin.

Điều hệ trọng về sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ

12 Vả, nếu giảng dạy rằng Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, thì sao trong anh em có kẻ nói rằng những kẻ chết chẳng sống lại? 13 Nếu những kẻ chết không sống lại, thì Đấng Christ cũng đã chẳng sống lại nữa. 14 Lại nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì sự giảng dạy của chúng tôi ra luống công, và đức tin anh em cũng vô ích. 15 Lại nếu kẻ chết quả thật không sống lại, thì Đức Chúa Trời đã chẳng khiến Đấng Christ sống lại, mà chúng tôi đã làm chứng trái với Đức Chúa Trời rằng Ngài đã làm cho Đấng Christ sống lại, té ra chúng tôi làm chứng dối cho Đức Chúa Trời. 16 Vì nếu kẻ chết chẳng sống lại, thì Đấng Christ cũng đã chẳng sống lại nữa. 17 Và nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì đức tin anh em cũng vô ích, anh em còn ở trong tội lỗi mình. 18 Vậy, những kẻ ngủ trong Đấng Christ cũng phải hư mất đời đời. 19 Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết.

Đức Chúa Jêsus Christ là trái đầu mùa của sự sống lại

20 Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ. 21 Vả, vì chưng bởi một người mà có sự chết, thì cũng bởi một người mà có sự sống lại của những kẻ chết. 22 Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại, 23 nhưng mỗi người theo thứ tự riêng của mình: Đấng Christ là trái đầu mùa; rồi tới ngày Đấng Christ đến, những kẻ thuộc về Ngài sẽ sống lại. 24 Kế đó, cuối cùng sẽ đến, là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực; 25 vì Ngài phải cầm quyền cho đến chừng đặt những kẻ thù nghịch dưới chân mình. 26 --- Kẻ thù bị hủy diệt sau cùng, tức là sự chết. --- 27 Vả, Đức Chúa Trời đã để muôn vật dưới chân Ngài; mà đã nói rằng muôn vật phục Ngài, thì chắc phải trừ ra Đấng làm cho muôn vật phục Ngài. 28 Khi muôn vật đã phục Ngài, thì bấy giờ chính mình Con sẽ phục Đấng đã làm cho muôn vật phục mình, hầu cho Đức Chúa Trời làm muôn sự trong muôn sự.
29 Bằng chẳng vậy, những người vì kẻ chết chịu phép báp-têm sẽ làm chi? Nếu kẻ chết quả thật không sống lại, thì sao họ vì những kẻ ấy mà chịu phép báp-têm? 30 Lại sao chính mình chúng tôi giờ nào cũng ở trong sự nguy hiểm? 31 Hỡi anh em, tôi chết hằng ngày, thật cũng như anh em là sự vinh hiển cho tôi trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta. 32 Nếu tôi theo cách loài người mà đã đánh cùng các loài thú ở thành Ê-phê-sô, thì có ích gì cho tôi? Nếu kẻ chết chẳng sống lại, thì hãy ăn, hãy uống, vì ngày mai chúng ta sẽ chết! 33 Anh em chớ mắc lừa: Bạn bè xấu làm hư thói nết tốt. 34 Hãy tỉnh biết, theo cách công bình, và chớ phạm tội; vì có người không biết Đức Chúa Trời chút nào, tôi nói vậy để anh em hổ thẹn.

Chất của thân thể người sống lại

35 Nhưng có kẻ sẽ nói rằng: Người chết sống lại thể nào, lấy xác nào mà trở lại? 36 Hỡi kẻ dại kia, vật gì ngươi gieo, nếu không chết đi trước đã, thì không sống lại được. 37 Còn như vật ngươi gieo, ấy không phải là chính hình thể sẽ sanh ra, chẳng qua là một cái hột, như hột lúa mì hay là hột giống nào khác. 38 Đức Chúa Trời cho nó hình thể tùy ý Ngài lấy làm tốt, mỗi một hột giống, cho một hình thể riêng. 39 Mọi xác thịt chẳng phải là đồng một xác thịt; nhưng xác thịt loài người khác, xác thịt loài thú khác, loài chim khác, loài cá khác. 40 Lại cũng có hình thể thuộc về trời, hình thể thuộc về đất, nhưng vinh quang của hình thể thuộc về trời với vinh quang của hình thể thuộc về đất thì khác nhau. 41 Vinh quang của mặt trời khác, vinh quang của mặt trăng khác, vinh quang của ngôi sao khác; vinh quang của ngôi sao nầy với vinh quang của ngôi sao kia cũng khác.
42 Sự sống lại của kẻ chết cũng như vậy. Thân thể đã gieo ra là hay hư nát, mà sống lại là không hay hư nát; 43 đã gieo ra là nhục, mà sống lại là vinh; đã gieo ra là yếu, mà sống lại là mạnh; 44 đã gieo ra là thể huyết khí, mà sống lại là thể thiêng liêng. Nếu đã có thể huyết khí, thì cũng có thể thiêng liêng; 45 ấy vậy, có lời chép rằng: Người thứ nhứt là A-đam đã nên linh hồn sống. A-đam sau hết là thần ban sự sống. 46 Nhưng chẳng phải thể thiêng liêng đến trước, ấy là thể huyết khí; rồi thể thiêng liêng đến sau. 47 Người thứ nhứt bởi đất mà ra, là thuộc về đất, người thứ hai bởi trời mà ra. 48 Người thuộc về đất thể nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy; người thuộc về trời thể nào, thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. 49 Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời.

Sự biến hóa và thắng trận sau cùng

50 Hỡi anh em, tôi đoán quyết rằng thịt và máu chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời được, và sự hay hư nát không hưởng sự không hay hư nát được. 51 Nầy là sự mầu nhiệm tôi tỏ cho anh em: Chúng ta không ngủ hết, nhưng hết thảy đều sẽ biến hóa, 52 trong giây phút, trong nháy mắt, lúc tiếng kèn chót; vì kèn sẽ thổi, kẻ chết đều sống lại được không hay hư nát, và chúng ta đều sẽ biến hóa. 53 Vả, thể hay hư nát nầy phải mặc lấy sự không hay hư nát, và thể hay chết nầy phải mặc lấy sự không hay chết. 54 Khi nào thể hay hư nát nầy mặc lấy sự không hay hư nát, thể hay chết nầy mặc lấy sự không hay chết, thì được ứng nghiệm lời Kinh thánh rằng: Sự chết đã bị nuốt mất trong sự thắng. 55 Hỡi sự chết, sự thắng của mầy ở đâu? Hỡi sự chết, cái nọc của mầy ở đâu? 56 Cái nọc sự chết là tội lỗi, sức mạnh tội lỗi là luật pháp. 57 Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.
58 Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.

15

Klei Krist Kbiă Lŏ Hdĭp

1Ơ phung ayŏng adei, kâo čiăng bi hdơr kơ diih klei mrâo mrang jăk kâo mtô leh kơ diih, klei anăn diih mă tŭ leh, leh anăn hlăm klei anăn mơh diih dôk kjăp. 2Hŏng klei anăn diih tlaih tơdah diih djă pioh kjăp klei mrâo mrang jăk kâo mtô anăn — tơdah amâo djŏ snăn klei diih đăo jing hơăi mang.
3 Kyuadah kâo mtô leh kơ diih klei yuôm hĭn, klei kâo pô mă tŭ leh msĕ mơh, jing klei Krist djiê leh kyua klei soh drei tui si Klei Aê Diê Blŭ čih leh, 4 arăng dơr Ñu leh, Ñu lŏ hdĭp leh ti hruê tal tlâo, tui si Klei Aê Diê Blŭ čih leh, 5 Ñu bi êdah Ñu pô leh kơ Y-Sêphas, leh anăn kơ phung pluh dua čô khua ƀĭng kna. 6Leh anăn Ñu bi êdah Ñu pô êbeh kơ êma êtuh čô phung ayŏng adei đăo hlăm sa bliư̆. Lu hlăm phung anăn ăt dôk hdĭp, knŏng ƀiă djiê leh. 7Êdei tinăn Ñu bi êdah Ñu pô kơ Y-Yakơ, leh anăn kơ jih jang phung khua ƀĭng kna. 8 Êdei hĭn kơ jih jang, Ñu bi êdah Ñu pô kơ kâo mơh, msĕ si kơ sa čô anak arăng kkiêng amâo djŏ hruê. 9 Kyuadah kâo jing khua ƀĭng kna điêt hĭn kơ jih jang, amâo năng ôh arăng pia kâo khua ƀĭng kna, kyuadah kâo ngă jhat leh kơ Phung Sang Aê Diê. 10Ƀiădah hŏng klei Aê Diê pap kâo jing msĕ si kâo jing anei, leh anăn klei Ñu pap kơ kâo amâo jing hơăi mang ôh. Ƀiădah kâo mă bruă suăi hĭn kơ jih jang diñu, amâo djŏ kâo pô ôh, ƀiădah klei Aê Diê pap dôk mbĭt hŏng kâo. 11Snăn yơh thâodah kâo amâodah diñu, klei anăn yơh hmei mtô, leh anăn diih đăo leh.

Klei Drei Srăng Kbiă Lŏ Hdĭp

12Snăn tơdah arăng mtô klei Krist kbiă lŏ hdĭp leh mơ̆ng phung djiê, si ngă mâo đa đa hlăm phung diih lač amâo mâo klei kbiă lŏ hdĭp kơ phung djiê ôh? 13Tơdah amâo mâo ôh klei kbiă lŏ hdĭp kơ phung djiê, Krist kăn kbiă lŏ hdĭp rei. 14Tơdah Krist amâo kbiă lŏ hdĭp ôh, klei hmei mtô jing hơăi mang, leh anăn klei diih đăo jing hơăi mang mơh. 15Wăt arăng mĭn hmei jing phung hưn soh kơ Aê Diê, kyuadah hmei hưn bi sĭt leh Aê Diê lŏ bi hdĭp leh Krist; ƀiădah Ñu amâo lŏ bi hdĭp gơ̆ ôh tơdah sĭt phung djiê amâo lŏ hdĭp ôh. 16Kyuadah tơdah phung djiê amâo lŏ hdĭp ôh, snăn Krist amâo lŏ hdĭp ôh. 17Tơdah Krist amâo lŏ hdĭp ôh, klei diih đăo jing hơăi mang leh anăn diih ăt dôk hlăm klei soh diih. 18Snăn phung đăo kơ Krist djiê leh ăt luč msĕ mơh. 19Tơdah knŏng hlăm klei hdĭp anei drei mâo klei čang hmăng hlăm Krist, drei jing phung knap mñai hĭn kơ jih jang mnuih.
20Ƀiădah ară anei Krist kbiă lŏ hdĭp leh mơ̆ng phung djiê, jing boh hlâo hlang kơ phung djiê leh. 21Kyuadah klei djiê truh leh mơ̆ng sa čô mnuih, msĕ snăn mơh klei kbiă lŏ hdĭp mơ̆ng phung djiê truh leh mơ̆ng sa čô mnuih. 22Kyuadah msĕ si hlăm Y-Ađam jih jang djiê, msĕ snăn mơh jih jang srăng kbiă lŏ hdĭp hlăm Krist. 23Ƀiădah grăp čô djŏ wir ñu: Krist jing boh hlâo hlang, êdei kơ anăn phung jing dŏ Krist srăng kbiă lŏ hdĭp ti hruê Ñu srăng lŏ hriê, 24êdei kơ anăn srăng truh klei knhal tuč, hlăk anăn Ñu srăng jao ƀuôn ala mtao kơ Aê Diê Ama, leh Ñu bi rai jih klei kiă kriê, jih klei dưi prŏng, leh anăn jih klei myang. 25 Kyuadah Ñu srăng kiă kriê tơl Aê Diê dưm jih jang phung roh Ñu ti gŭ jơ̆ng Ñu. 26Pô roh knhal tuč Ñu srăng bi rai jing klei djiê. 27 “Kyuadah Aê Diê dưm leh jih jang mnơ̆ng ti gŭ jơ̆ng Ñu.” Ƀiădah tơdah Klei Aê Diê Blŭ čih lač, “Jih jang mnơ̆ng Aê Diê bi mŭt leh kơ Ñu sơăi,” drei dưi thâo săng mngač amâo yap wăt Aê Diê ôh, Pô bi mŭt jih jang mnơ̆ng anăn kơ Ñu. 28Tơdah jih jang mnơ̆ng mŭt Ñu leh, hlăk anăn Anak gơ̆ pô mơh srăng mŭt Pô bi mŭt kơ Ñu jih jang mnơ̆ng, čiăng kơ Aê Diê dưi jing jih kơ jih jang.
29Tơdah amâo djŏ snăn ôh, ya yuôm arăng tŭ klei ƀaptem hrô phung djiê? Tơdah phung djiê amâo lŏ hdĭp ôh, si ngă arăng tŭ klei ƀaptem hrô digơ̆? 30Si ngă hmei dôk hlăm klei hyưt grăp mông? 31Ơ phung ayŏng adei, kâo dôk ti anăp klei djiê grăp hruê, sĭt nik msĕ si diih jing klei guh kơang kơ kâo hlăm Krist Yêsu, Khua Yang drei! 32 Tơdah blŭ tui si mnuih, ya klei tŭ dưn kâo mâo tơdah kâo bi blah hŏng hlô dliê ti ƀuôn Êphêsô? Tơdah phung djiê amâo kbiă lŏ hdĭp ôh,
  “Brei drei huă ƀơ̆ng leh anăn mnăm,
   kyuadah mgi drei srăng djiê yơh.”
33Đăm lĕ hlăm klei mplư: “Phung mah jiăng jhat bi rai knuih jăk.” 34Lŏ mĭn bĕ bi djŏ, leh anăn đăm lŏ ngă soh ôh. Kyuadah đa đa amâo thâo kral Aê Diê ôh. Kâo lač klei anei čiăng bi hêñ diih.

Asei Mlei Kbiă Lŏ Hdĭp

35Ƀiădah arăng srăng êmuh, “Si phung djiê srăng kbiă lŏ hdĭp? Hŏng ya mta asei mlei diñu srăng hriê?” 36Ơ mnuih mluk! Ya mnơ̆ng ih rah amâo srăng lŏ hdĭp ôh tơl leh ñu djiê. 37Leh anăn mnơ̆ng ih rah anăn, amâo djŏ ôh jing ana srăng čăt, ƀiădah knŏng sa asăr mjeh, năng ai mjeh mdiê ƀlê amâodah mjeh mkăn. 38Ƀiădah Aê Diê brei kơ gơ̆ ana tui si Ñu čiăng, leh anăn kơ grăp mta mjeh Ñu brei ana gơ̆ pô. 39Jih jang kđeh amâo jing msĕ ôh, kđeh mnuih mdê, kđeh hlô mnơ̆ng mdê, kđeh čĭm čap mdê, leh anăn kđeh kan mdê. 40Mâo asei mlei djŏ kơ adiê, leh anăn mâo asei mlei djŏ kơ lăn ala; ƀiădah klei guh kơang asei mlei djŏ kơ adiê mdê hŏng klei guh kơang asei mlei djŏ kơ lăn ala. 41Klei guh yang hruê mdê, klei guh mlan mdê, leh anăn klei guh mtŭ mdê; wăt klei guh sa asăr mtŭ anei mdê hŏng klei guh sa asăr mtŭ mkăn.
42Msĕ snăn mơh klei kbiă lŏ hdĭp mơ̆ng phung djiê. Asei mlei arăng rah thâo brŭ rai; ƀiădah asei mlei lŏ hdĭp amâo thâo brŭ rai ôh. 43Arăng rah ñu amâo siam ôh; lŏ hdĭp ñu mâo klei guh kơang. Arăng rah ñu awăt; lŏ hdĭp ñu mâo klei ktang. 44Arăng rah ñu asei mlei kđeh; lŏ hdĭp ñu mâo asei mlei myang. Tơdah mâo asei mlei kđeh, mâo msĕ mơh asei mlei myang. 45 Snei Klei Aê Diê Blŭ čih leh, “Mnuih tal êlâo Y-Ađam jing mngăt hdĭp; Y-Ađam knhal tuč jing mngăt brei klei hdĭp.” 46Amâo djŏ ôh asei mlei myang truh êlâo, ƀiădah asei mlei kđeh; asei mlei myang truh êdei. 47Mnuih tal êlâo kbiă hriê mơ̆ng lăn, jing mnuih lăn; mnuih tal dua kbiă hriê mơ̆ng adiê. 48Msĕ si pô mơ̆ng lăn, msĕ snăn mơh phung mơ̆ng lăn; leh anăn msĕ si pô mơ̆ng adiê, msĕ snăn mơh phung mơ̆ng adiê. 49Msĕ si drei mâo leh rup mnuih mơ̆ng lăn, msĕ snăn mơh drei srăng mâo rup mnuih mơ̆ng adiê. 50Ơ phung ayŏng adei, kâo hưn sĭt klei anei kơ diih: kđeh leh anăn êrah amâo dưi dưn ƀuôn ala mtao Aê Diê ôh, kăn mnơ̆ng thâo brŭ rai dưi dưn klei amâo thâo brŭ rai rei.
51Nĕ anei, kâo hưn klei hgăm kơ diih: drei amâo srăng djiê jih ôh, ƀiădah jih jang drei srăng mâo klei bi mlih, 52bhiâo riâo rit msĕ si kđhĭt ală, êjai hmư̆ asăp ki knhal tuč. Hlăk anăn phung djiê srăng kbiă lŏ hdĭp amâo lŏ thâo brŭ rai ôh, leh anăn drei srăng mâo klei bi mlih. 53Kyuadah asei mlei thâo brŭ rai anei srăng hơô asei mlei amâo thâo brŭ rai ôh; leh anăn asei mlei thâo djiê anei srăng hơô asei mlei amâo thâo djiê ôh. 54 Tơdah asei mlei thâo brŭ rai anei srăng hơô asei mlei amâo thâo brŭ rai ôh, leh anăn tơdah asei mlei thâo djiê anei srăng hơô asei mlei amâo thâo djiê ôh, hlăk anăn srăng bi sĭt Klei Aê Diê Blŭ čih leh snei:
  “Klei dưi lun leh klei djiê.
  55 Ơ klei djiê, ti klei ŏng dưi?
   Ơ klei djiê, ti ênuč ŏng?”
56Ênuč klei djiê jing klei soh, leh anăn klei myang kơ klei soh jing klei bhiăn. 57Ƀiădah bi mni kơ Aê Diê, Pô brei kơ drei klei dưi hlăm Khua Yang drei Yêsu Krist.
58Snăn, Ơ phung ayŏng adei kâo khăp, dôk kjăp bĕ, amâo mgei ôh, leh anăn mă bruă êbeh hĭn nanao kơ Khua Yang, kyuadah diih thâo leh bruă diih mă hlăm Khua Yang amâo jing hơăi mang ôh.