19

Dân chúng đưa Đa-vít trở qua sông Giô-đanh

1 Người ta đến nói cùng Giô-áp rằng: Kìa, vua khóc và than tiếc Áp-sa-lôm. 2 Ấy vậy, chính trong ngày đó sự thắng trận bèn đổi ra sự thảm sầu cho cả dân sự; vì dân sự đã nghe nói rằng vua rất buồn bực về sự chết của con vua. 3 Nên nỗi, trong ngày đó, dân sự lén trở vào thành dường như một đạo binh mắc cỡ vì đã trốn khỏi chiến trận.
4 Vua trùm mặt, la lớn tiếng lên rằng: Ôi, Áp-sa-lôm, con trai ta! Ôi, Áp-sa-lôm, con trai ta! Con trai ta! 5 Giô-áp bèn vào nhà vua, và nói rằng: Ngày nay vua làm hổ mặt các kẻ tôi tớ vua, là những người chính ngày nay đã cứu mạng sống của vua, của các con trai và các con gái vua, luôn đến mạng sống của các vợ và hầu vua nữa. 6 Vậy, vua thương những người ghét vua, và ghét những người thương vua; vì vua mới tỏ ra rằng những quan trưởng và các tôi tớ của vua chẳng ra chi với vua. Rày tôi biết rõ ràng nếu Áp-sa-lôm còn sống, và chúng tôi ngày nay đều chết hết thảy, thì vừa ý vua. 7 Thà vua chỗi dậy đi ra nói những lời giục lòng các tôi tớ vua; vì tôi chỉ Đức Giê-hô-va mà thề rằng, nếu vua không chường ra, thì đêm nay sẽ không còn người nào ở bên vua; và tai nạn ấy sẽ còn trọng hơn các tai nạn khác đã xảy đến cho vua từ khi thơ ấu tới ngày nay. 8 Bấy giờ, vua chỗi dậy, ngồi tại cửa thành. Người ta cho cả dân sự biết rằng vua đã ngồi tại cửa thành. Cả dân sự bèn kéo đến trước mặt vua.
 Vả, Y-sơ-ra-ên ai nấy đều đã chạy trốn về nơi trại mình.
9 Trong các chi phái Y-sơ-ra-ên người ta trách nhau rằng: Vua đã giải chúng ta khỏi tay kẻ thù nghịch chúng ta, và người đã cứu chúng ta khỏi tay dân Phi-li-tin. Song bây giờ, người phải trốn khỏi xứ vì cớ Áp-sa-lôm. 10 Vả, Áp-sa-lôm mà chúng ta đã xức dầu cho làm vua chúng ta đã chết trong chiến trận. Vậy bây giờ, nhân sao các ngươi không nói đem vua trở về?
11 Vua Đa-vít sai nói cùng hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha rằng: Hãy nói cùng các trưởng lão Giu-đa mà rằng: Lời cả Y-sơ-ra-ên nói về việc rước vua về, đã thấu đến nơi vua rồi; vậy, cớ sao các ngươi là kẻ sau chót đem vua về cung người? 12 Các ngươi là anh em ta, là cốt nhục ta. Nhân sao các ngươi là kẻ sau chót đem vua về? 13 Cũng hãy nói cùng A-ma-sa rằng: Ngươi há chẳng phải là cốt nhục ta sao? Nếu ngươi không làm tổng binh thế cho Giô-áp hằng ở trước mặt ta, thì nguyện Đức Chúa Trời phạt ta cách nặng nề. 14 Như vậy, Đa-vít được lòng hết thảy người Giu-đa, dường như họ chỉ một người mà thôi; họ bèn sai nói với vua rằng: Xin vua hãy trở về với hết thảy tôi tớ vua. 15 Vậy, vua trở về, đến tại bờ sông Giô-đanh. Các người Giu-đa đi đến đón vua tại Ghinh-ganh đặng đưa vua qua sông Giô-đanh.

Đa-vít tha cho Si-mê-i và Mê-phi-bô-sết

16 Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim, lật đật đi xuống với các người Giu-đa, đón vua Đa-vít. 17 Một ngàn người Bên-gia-min đều theo người, với Xíp-ba, tôi tớ của nhà Sau-lơ, cùng mười lăm con trai người và hai mươi đầy tớ; chúng qua sông Giô-đanh tại trước mặt vua. 18 Chiếc đò để sẵn cho gia quyến vua cũng qua một lượt. Si-mê-i, con trai của Ghê-ra, phục dưới chân vua Đa-vít, trong khi vua hầu qua sông Giô-đanh. 19 Người nói cùng vua rằng: Cầu xin chúa tôi chớ kể tội ác cho tôi, và đừng nhớ đến sự gian tà mà kẻ tôi tớ vua đã phạm trong ngày vua chúa tôi đi ra khỏi Giê-ru-sa-lem. Xin vua chớ để điều đó vào lòng. 20 Kẻ tôi tớ vua nhìn biết mình đã phạm tội. Vì vậy, ngày nay trong cả nhà Giô-sép, tôi đã đến trước hết đặng xuống đón vua chúa tôi. 21 Nhưng A-bi-sai, con trai Xê-ru-gia, đáp rằng: Vậy, người ta há không xử tử Si-mê-i vì cớ đó sao, là kẻ đã rủa sả đấng chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va? 22 Nhưng Đa-vít đáp cùng người rằng: Hỡi các con trai Xê-ru-gia, ta có can hệ chi với các ngươi chăng, mà ngày nay các ngươi ở với ta khác nào kẻ cừu địch? Trong một ngày như vậy, người ta há có thể sai giết một người trong Y-sơ-ra-ên ư? Ngày nay có lẽ nào ta không hiểu rằng ta là vua của Y-sơ-ra-ên sao? 23 Đoạn, vua nói cùng Si-mê-i rằng: Ngươi chẳng chết đâu. Rồi vua lập lời thề với người.
24 Mê-phi-bô-sết, con trai của Sau-lơ, cũng đi xuống đón vua. Người không có rửa chân, chải râu hay là giặt áo mình từ lúc vua ra đi, cho đến ngày vua trở về bình an vô sự. 25 Khi người ở Giê-ru-sa-lem đến đón vua, thì Đa-vít hỏi người rằng: Hỡi Mê-phi-bô-sết, sao ngươi không đến cùng ta? 26 Người thưa rằng: Ôi vua chúa tôi, thằng tôi tớ tôi có đánh lừa tôi. Thật tôi nghĩ rằng: Tôi sẽ thắng lừa, rồi cỡi nó đặng đi theo vua; vì tôi tớ của vua là què. 27 Người ta có cáo gian tôi ở nơi vua chúa tôi; nhưng vua chúa tôi khác nào một thiên sứ của Đức Chúa Trời. Xin hãy đãi tôi theo ý vua lấy làm tốt. 28 Vì các người của nhà cha tôi trước mặt vua chúa tôi chỉ đáng chết mà thôi. Dầu vậy, vua đã để tôi vào số người ăn nơi bàn vua. Thế thì, tôi nào còn có lẽ gì mà phàn nàn cùng vua? 29 Vua nói cùng người rằng: Sao còn nói về việc mình làm chi? Ta đã nói rằng: Ngươi và Xíp-ba hãy chia lấy đất. 30 Mê-phi-bô-sết thưa lại rằng: Xíp-ba lấy hết cũng được, bởi vì vua chúa tôi đã trở về nhà mình bình an vô sự.

Đa-vít thưởng cho Bát-xi-lai

31 Bát-xi-lai ở Ga-la-át cũng từ Rô-ghê-lim xuống, và qua sông Giô-đanh với vua đặng đưa vua đến bên kia sông. 32 Người đã già quá, được tám mươi tuổi, có cung cấp lương thực cho vua trọn lúc vua ở tại Ma-ha-na-im; vì người có nhiều của cải lắm.
33 Vua nói với Bát-xi-lai rằng: Hãy qua sông Giô-đanh với ta, ta sẽ bao bọc cho ngươi ở nhà ta tại Giê-ru-sa-lem. 34 Nhưng Bát-xi-lai thưa cùng vua rằng: Bây giờ tôi còn bao lâu ngày nữa, mà lại cùng vua đi lên Giê-ru-sa-lem? 35 Ngày nay tôi được tám mươi tuổi, há còn có thể phân biệt điều tốt và điều xấu ư? Kẻ tôi tớ vua cũng chẳng nếm được mùi của vật mình ăn và uống. Há lại còn có thể vui nghe người nam nữ ca xướng sao? Kẻ tôi tớ vua sẽ làm bận vua chúa tôi mà làm chi?
36 Kẻ tôi tớ vua sẽ cùng vua đi tới một chút ở bên kia sông Giô-đanh. Cớ sao vua muốn thưởng cho tôi cách dường ấy? 37 Xin cho phép tôi trở về, hầu cho tôi chết trong thành tôi, gần bên mộ của cha mẹ tôi. Nhưng nầy là Kim-ham, kẻ tôi tớ vua; nó sẽ đi qua sông Giô-đanh với vua chúa tôi, rồi vua phải đãi nó tùy ý vua lấy làm tốt. 38 Vua tiếp rằng: Kim-ham sẽ theo ta, ta sẽ làm cho nó mọi điều ngươi muốn; hễ ngươi xin ta điều gì, thì ta sẽ nhậm cho.
39 Vậy, cả dân sự đều qua sông Giô-đanh, chính mình vua cũng đi nữa. Đoạn vua hôn và chúc phước cho Bát-xi-lai; rồi Bát-xi-lai trở về xứ sở mình. 40 Từ đó, vua đi qua Ghinh-ganh, có Kim-ham, cả dân Giu-đa, và hơn phân nửa dân Y-sơ-ra-ên đều theo.

Người Y-sơ-ra-ên và người Giu-đa tranh nhau

41 Bấy giờ, hết thảy người Y-sơ-ra-ên đến cùng vua, mà hỏi rằng: Cớ sao anh em chúng tôi là người Giu-đa, có lén đem vua, đi đưa sang sông Giô-đanh luôn với người nhà và hết thảy kẻ theo vua? 42 Người Giu-đa đáp lại cùng người Y-sơ-ra-ên rằng: Ấy vì vua là đồng tộc cùng chúng ta. Vả lại, cớ sao anh em giận? Chúng ta có ăn nhờ gì của vua chăng? Chúng ta há có lãnh một của gì nơi vua sao? 43 Nhưng người Y-sơ-ra-ên đáp cùng người Giu-đa rằng: Chúng ta có mười phần nơi vua, lại Đa-vít thuộc về chúng ta hơn là các ngươi; vậy, cớ sao các ngươi không đếm xỉa đến chúng ta? Há chẳng phải chúng ta nói trước đem vua về sao? Những lời nói của người Giu-đa lại còn nặng hơn lời nói của người Y-sơ-ra-ên.

19

1Yôab hơmư̆ arăng laĭ hăng ñu tui anai, “Pơtao hlak hia laih anŭn kơŭ kơuăn kơ Absalôm.” 2Amăng hrơi anŭn tơlơi abih bang ƀing ling tơhan dưi hĭ anŭn pơplih jing hĭ tơlơi kơŭ kơuăn, yuakơ amăng hrơi anŭn ƀing tơhan hơmư̆ tui anai, “Pơtao hlak čŏk hia kơ ană đah rơkơi ñu.” 3Ƀing mơnuih wơ̆t glaĭ hơgŏm pơ plei hrơi anŭn kar hăng ƀing đuaĭ kơdŏp mơ̆ng tơlơi pơblah, jing hĭ mlâo mlañ yơh. 4Pơtao go̱m hĭ ƀô̆ mơta ñu hăng tơngan ñu laih anŭn hia kraih tui anai, “Ơ ană kâo Absalôm hơi! Ơ dăm Absalôm, Ơ ană kâo hơi!”
5Giŏng anŭn, Yôab mŭt pơ sang nao pơ pơtao hăng laĭ tui anai, “Hrơi anai ih hơmâo pơmlâo hĭ laih abih bang ƀing ling tơhan ih, jing ƀing hơmâo pơklaih laih tơlơi hơdip ih, tơlơi hơdip ƀing ană đah rơkơi đah kơmơi ih laih anŭn tơlơi hơdip ƀing bơnai ih, ƀing bơnai hle̱ ih. 6Ih khăp kơ hlơi pơrơmut kơ ih laih anŭn pơrơmut kơ ƀing hlơi khăp kơ ih. Ih hơmâo pơrơđah rơđah rơđo̱ng laih hrơi anai, ƀing khua git gai laih anŭn ƀing ling tơhan gơñu jing hĭ đôč đač kơ ih. Kâo ƀuh ih či hơ̆k mơak yơh hrơi anai tơdah Absalôm hơdip hrơi anai laih anŭn abih bang ƀing gơmơi djai hĭ. 7Ră anai tơbiă bĕ, pơtrŭt bĕ ƀing ling tơhan ih. Kâo ƀuăn hăng Yahweh, tơdah ih ƀu tơbiă ôh, ƀu hơmâo sa čô mơnuih ôh či dŏ glaĭ hăng ih truh kơ kơnăm mơmŏt. Tơlơi anai jing răm hloh yơh kơ ih, jing răm hloh kơ abih bang tơlơi truh sat hơmâo truh laih kơ ih čơdơ̆ng mơ̆ng ih dŏ čơđai.”
8Tui anŭn, pơtao tơgŭ laih anŭn dŏ be̱r ƀơi amăng ja̱ng. Tơdang ƀing ling tơhan hơmư̆ arăng laĭ tui anai, “Pơtao hlak dŏ ƀơi amăng ja̱ng,” tui anŭn abih bang ƀing gơñu rai ƀơi anăp pơtao yơh.

Dawid Wơ̆t Glaĭ Pơ Plei Yerusalaim

 Tơdang anŭn, ƀing Israel hơmâo čơlah đuaĭ hĭ laih pơ sang gơñu pô. 9Amăng abih bang kơnung djuai Israel, abih bang ƀing ană plei pơrơjăh hăng tơdruă gơñu tui anai, “Pơtao yơh hơmâo pơklaih hĭ laih ƀing ta mơ̆ng abih bang ƀing rŏh ayăt ta laih anŭn ñu ăt pơklaih hĭ laih ƀing ta mơ̆ng ƀing Philistia dưi kơtang mơ̆n. Samơ̆ ră anai ñu hơmâo đuaĭ kơdŏp hĭ mơ̆ng lŏn čar ta yuakơ Absalôm; 10laih anŭn Absalôm, jing pô ƀing ta hơmâo ruah laih kiăng git gai ƀing ta, hơmâo djai hĭ laih mơ̆n. Tui anŭn, ƀing gih năng pơhiăp bĕ kơ tơlơi ba glaĭ pơtao.”
11Pơtao Dawid mơit nao tơlơi pơtă anai kơ ƀing khua ngă yang Zadôk hăng Abiathar tui anai, “Pơtă bĕ ƀing kŏng tha Yudah tui anai, ‘Ƀing gih anăm jing ôh ƀing hơnăl tuč kiăng kơ ba glaĭ pơtao pơ sang pơtao ñu. Yuakơ pơtao dŏ ƀơi anih ñu git gai wai lăng hơmâo hơmư̆ laih hơdôm tơlơi pơkŏn ƀing Israel pơhiăp. 12Ƀing gih jing ƀing ayŏng adơi kâo, jing drơi jan drah kơtăk kâo. Tui anŭn, ƀing gih anăm jing ôh ƀing hơnăl tuč kiăng kơ ba glaĭ pơtao.’ 13Laih anŭn laĭ bĕ kơ Amasa tui anai, ‘Ih jing drơi jan drah kơtăk kâo. Rơkâo kơ Ơi Adai ngă sat kơ kâo kơtang kơtĭt tơdah čơdơ̆ng mơ̆ng ră anai ih ƀu djơ̆ ôh jing khua git gai ƀing ling tơhan kâo pơala kơ Yôab.’ ”
14Ñu dưi mă glaĭ abih bang pran jua ƀing Yudah kar hăng ƀing gơñu jing hĭ sa čô. Ƀing gơñu mơit hiăp nao pơ pơtao tui anai, “Wơ̆t glaĭ bĕ, ih laih anŭn abih bang ƀing đuaĭ tui ih.” 15Giŏng anŭn, pơtao wơ̆t glaĭ laih anŭn nao ataih truh pơ krong Yurdan yơh.
 Hlak anŭn, ƀing Yudah hơmâo rai laih pơ plei Gilgal kiăng kơ tơbiă nao bưp pơtao hăng ba ñu găn krong Yurdan.
16Simei ană đah rơkơi Gêra jing ƀing Benyamin mơ̆ng plei pơnăng Bahurim, ăt ječ ameč trŭn nao hrŏm hăng ƀing Yudah mơ̆n kiăng kơ bưp pơtao Dawid. 17Hrŏm hăng Simei hơmâo sa-rơbâo čô ƀing Benyamin, wơ̆t hăng Ziba, jing pô khua wai gơnam kơ sang anŏ Saul mơ̆n; ñu rai hrŏm hăng pluh-rơma čô ană đah rơkơi ñu laih anŭn duapluh čô ƀing ding kơna ñu mơ̆n. Abih bang ƀing gơñu trŭn nao tañ pơ krong Yurdan, jing nao pơ anih pơtao hlak dŏ anŭn. 18Abih bang ƀing gơñu nao găn pơ kơđông kiăng mă ba glaĭ ƀing sang anŏ pơtao laih anŭn ngă tui hơdôm tơlơi pơtao kiăng yơh.
 Tơdang Simei ană đah rơkơi Gêra găn krong Yurdan, ñu bon kơkuh ƀơi anăp pơtao,
19laih anŭn laĭ tui anai, “Rơkâo kơ ih pơtao khua kâo hơi, anăm djă̱ pioh ôh tơlơi soh kâo. Rơkâo kơ ih pap brơi kơ kâo, ding kơna ih anai, pơsoh hĭ laih ƀơi hrơi ih tơbiă đuaĭ mơ̆ng plei Yerusalaim, Ơ pơtao khua kâo ăh. Rơkâo kơ ih wơr bĭt hĭ bĕ hơdôm tơlơi soh sat kâo anŭn mơ̆ng jua pơmĭn ih. 20Yuakơ kâo, jing ding kơna ih, thâo krăn kơ tơlơi kâo hơmâo pơsoh laih yơh, samơ̆ hrơi anai kâo khŏm rai pơ anai jing pô blung hlâo amăng abih bang kơnung djuai ƀing Israel pơkŏn trŭn rai kiăng kơ bưp ih, Ơ pơtao khua kâo ăh.”
21Giŏng anŭn, Abisai ană đah rơkơi HʼZeruyah laĭ tui anai, “Sĭt Simei năng tŭ tơlơi djai kơ tơhơnal tơlơi anŭn yơh. Ñu hơtŏm păh laih pô Yahweh trôč laih kiăng kơ jing pơtao.”
22Dawid laĭ kơ Abisai hăng Yôab tui anai, “Ơ ƀing dua ană đah rơkơi HʼZeruyah hơi, kâo ƀu kiăng ngă tơlơi hơget ôh tĕk djơ̆ ƀing gih! Hrơi anai dua ƀing gih hlak pơkơdơ̆ng glaĭ hăng kâo! Ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng ƀing Israel či tŭ tơlơi djai hrơi anai. Kâo thâo hrơi anai kâo jing pơtao kơ ƀing Israel dơ̆ng!” 23Tui anŭn, pơtao laĭ kơ Simei tui anai, “Ih ƀu či djai ôh.” Laih anŭn dơ̆ng pơtao ƀuăn rơ̆ng tơlơi anŭn hăng ñu yơh.
24Mephibôset, tơčô Saul, ăt nao čơkă pơtao mơ̆n. Yuakơ Mephibôset pơpŭ kơ Dawid yơh, tui anŭn ñu ƀu răk wai ôh plă̱ tơkai ñu, khăt blâo ka̱ng ñu ƀôdah boh sum ao ñu čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi pơtao tơbiă đuaĭ hĭ tơl hrơi pơtao wơ̆t glaĭ rơnŭk rơnua. 25Tơdang ñu rai mơ̆ng plei Yerusalaim nao čơkă pơtao, pơtao tơña ñu tui anai, “Ơ Mephibôset, yua hơget ih ƀu đuaĭ tui hăng kâo ôh lĕ?”
26Ñu laĭ glaĭ tui anai, “Ơ khua kâo, pơtao hơi, yuakơ kâo jing ding kơna ih rơwen mơ̆n, kâo laĭ, ‘Kâo či mă aseh glai kâo laih anŭn đĭ ƀơi anŭn; tui anŭn yơh kâo dưi nao hrŏm hăng pơtao.’ Samơ̆ Ziba jing ding kơna kâo pơblư̆ hĭ kâo. 27Giŏng anŭn, ñu pơhiăp sat kơ kâo, ding kơna ih anai, hăng ih, Ơ pơtao khua kâo ăh. Ih yơh khua kâo, pơtao ăh, hrup hăng sa čô ling jang Ơi Adai; tui anŭn ngă bĕ tui hăng hơget tơlơi pơmơak kơ ih. 28Abih bang kơnung djuai ama kâo ƀu lăp tŭ mă hơget gĕt ôh samơ̆ kơnơ̆ng mă tŭ tơlơi djai yơh mơ̆ng ih, Ơ pơtao khua kâo ăh, samơ̆ ih brơi laih kơ kâo, ding kơna ih anai, sa boh anih amăng ƀing ƀơ̆ng huă ƀơi kơƀa̱ng ih. Tui anŭn, kâo ƀu hơmâo tơlơi djơ̆ găl kiăng kơ kwưh rơkâo hơget mơta tơlơi mơ̆ng ih ôh, pơtao kâo ăh.”
29Pơtao laĭ kơ ñu tui anai, “Yua hơget ih pơhiăp dơ̆ng lĕ? Kâo pơđar laih ih hăng Ziba pơkăh pơpha bĕ khul đang hơma.”
30Mephibôset laĭ kơ pơtao tui anai, “Brơi bĕ kơ ñu mă hĭ abih bang, ră anai ih, pơtao khua kâo ăh, hơmâo glaĭ laih pơ sang rơnŭk rơnua.”
31Barzillai, jing mơnuih mơ̆ng tring Gilead, ăt trŭn nao mơ̆ng plei pơnăng Rôglim kiăng kơ găn krong Yurdan hrŏm hăng pơtao laih anŭn kiăng pơčơlah tơngan hăng pơtao mơ̆ng anih anŭn. 32Hlak anŭn, Barzillai tha biă mă yơh, ñu hơmâo sapănpluh thŭn laih. Ñu hơmâo djru brơi kơ pơtao tơdang ƀing pơtao dŏ amăng anih Mahanaim, yuakơ ñu jing sa čô pơdrŏng săh biă mă. 33Pơtao laĭ kơ Barzillai tui anai, “Găn nao bĕ hăng kâo laih anŭn dŏ hăng kâo pơ plei Yerusalaim, tui anŭn kâo či djru kơ ih.”
34Samơ̆ Barzillai laĭ glaĭ kơ pơtao tui anai, “Kâo ƀu hơmâo lu thŭn dơ̆ng ôh kiăng kơ hơdip. Tui anŭn, kâo ƀu či đĭ nao pơ plei Yerusalaim hrŏm hơbĭt hăng ih ôh, pơtao ăh. 35Kâo ră anai hơmâo sapănpluh thŭn laih. Kâo ƀu thâo pơkơnăl tŏng krah hơget tơlơi jing mơak mơai laih anŭn tơlơi ruă nuă dơ̆ng tah. Kâo, ding kơna ih anai, ƀu thâo ƀơ̆ng mơñum jơma̱n hơget gơnam kâo ƀơ̆ng laih anŭn mơñum ôh. Kâo ăt kŏn dưi hơmư̆ lơi dơnai hiăp ƀing đah rơkơi đah kơmơi adoh. Tơdah kâo, ding kơna ih anai, ngă tui anŭn, sĭt kâo, ding kơna ih anai, či jing hĭ sa tơlơi kơtraŏ kơ ih yơh, Ơ pơtao khua kâo ăh. 36Kâo, ding kơna ih anai, či găn nao krong Yurdan hrŏm hăng ih ataih ƀiă, samơ̆ ih, Ơ pơtao ăh, anăm bơni kơ kâo amăng jơlan anai ôh. 37Brơi bĕ kâo, ding kơna ih anai, wơ̆t glaĭ, tui anŭn kâo dưi djai amăng plei kâo pô jĕ pơsat amĭ ama kâo. Samơ̆ anai yơh jing ană đah rơkơi kâo, ding kơna ih anai, Kimham. Brơi bĕ ñu găn nao hrŏm hăng ih khua kâo, pơtao ăh. Ngă bĕ kơ ñu hơget tơlơi pơmơak kơ ih.”
38Pơtao laĭ tui anai, “Kimham či găn nao hrŏm hăng kâo yơh laih anŭn kâo či ngă kơ ñu hơget tơlơi pơmơak kơ ih. Hơget tơlơi ih amoaih kiăng mơ̆ng kâo, kâo či ngă brơi kơ ih yơh.”
39Tui anŭn, abih bang mơnuih găn krong Yurdan laih anŭn pơtao ăt găn mơ̆n. Pơtao čum pơčơlah hăng Barzillai laih anŭn bơni hiam kơ gơ̆, tui anŭn Barzillai wơ̆t glaĭ pơ sang gơ̆ pô yơh.
40Tơdang pơtao găn nao pơ anih Gilgal, Kimham găn hrŏm hăng ñu mơ̆n. Abih bang ƀing tơhan Yudah laih anŭn sămkrah ƀing ling tơhan Israel hơmâo ba pơtao găn nao.
41Ƀu sui ôh mơ̆ng anŭn abih bang ƀing Israel nao pơ pơtao laih anŭn laĭ tui anai, “Yua hơget ƀing ayŏng adơi gơmơi, jing ƀing Yudah, klĕ mă hĭ pơtao laih anŭn ba hĭ pơtao, sang anŏ pơtao găn krong Yurdan wơ̆t hăng abih bang ƀing tơhan ñu lĕ?”
42Abih bang ƀing Yudah laĭ glaĭ kơ ƀing Israel tui anai, “Ƀing gơmơi ngă tơlơi anŭn yuakơ pơtao jing kơnung djuai adơi ai jĕ hăng ƀing gơmơi. Ƀing gih anăm hil nač kơ tơlơi anŭn ôh. Pơtao ƀu hơmâo pha brơi gơnam ƀơ̆ng hơget ôh kơ ƀing gơmơi, laih anŭn ƀing gơmơi ƀu hơmâo mă tŭ gơnam hơget ôh mơ̆ng pơtao.”
43Giŏng anŭn, ƀing Israel pơkŏn laĭ glaĭ kơ ƀing Yudah tui anai, “Ƀing gơmơi hơmâo pluh kơnung djuai lu hloh kơ ƀing gih jing sa kơnung djuai, tui anŭn pơtao Dawid lŏm kơ ƀing gơmơi jing lu hloh kơ ƀing gih yơh. Tui anŭn, ƀing anăm djik djak kơ ƀing gơmơi ôh! Sĭt yơh, ƀing gơmơi yơh jing ƀing laĭ hlâo kơ tơlơi kiăng ba glaĭ pơtao!”
 Samơ̆ ƀing mơnuih Yudah laĭ glaĭ khĭn hơtai hloh kơ ƀing mơnuih Israel.