20

Dân Mô-áp và đồng minh chúng nó xông đánh Giô-sa-phát

1 Sau các việc nầy, xảy có dân Mô-áp, dân Am-môn, và những người Mao-nít ở cùng họ, kéo đến đặng đánh giặc với Giô-sa-phát. 2 Bấy giờ, có người đến thuật cho Giô-sa-phát, mà rằng: Có một đám quân rất đông từ bên bờ kia của biển, từ nước Sy-ri, mà đến hãm đánh vua; kìa chúng đương ở tại Hát-sát-son-Tha-ma, cũng gọi là Ên-Ghê-đi. 3 Giô-sa-phát sợ hãi, rắp lòng tìm cầu Đức Giê-hô-va, và rao khắp xứ Giu-đa phải kiêng ăn một ngày. 4 Giu-đa nhóm lại đặng cầu Đức Giê-hô-va cứu giúp; người ta ở các thành Giu-đa đều đến đặng tìm cầu Đức Giê-hô-va.

Lời cầu nguyện của Giô-sa-phát

5 Giô-sa-phát đứng trong hội chúng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, tại trong đền của Đức Giê-hô-va, trước hành lang mới, 6 mà cầu nguyện rằng: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng tôi! Ngài há chẳng phải là Chúa ở trên các từng trời sao? Há chẳng phải Đấng quản trị muôn dân muôn nước sao? Ở nơi tay Chúa có quyền thế năng lực, chẳng ai chống trả Chúa cho nổi. 7 Hỡi Đức Chúa Trời chúng tôi! Ngài há chẳng phải đã đuổi dân ở xứ nầy khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, mà ban xứ ấy cho dòng dõi Áp-ra-ham, là bạn hữu Chúa, làm sản nghiệp đời đời sao? 8 Chúng đã ở đó, và đã cất cho danh Chúa một đền thánh mà rằng: 9 Nếu tai họa giáng trên chúng tôi, hoặc gươm giáo, hoặc sự đoán phạt, hoặc dịch hạch, hay là cơn đói kém, thì chúng tôi sẽ đứng trước đền nầy và trước mặt Chúa (vì danh Chúa ở trong đền nầy), mà kêu cầu Chúa trong sự gian nan chúng tôi, thì Chúa sẽ dủ nghe và giải cứu cho. 10 Trong lúc dân Y-sơ-ra-ên từ xứ Ê-díp-tô lên, Chúa có cấm họ loán đến xứ dân Am-môn, dân Mô-áp, và người ở núi Sê-i-rơ; dân Y-sơ-ra-ên xây khỏi chúng nó, không diệt chúng nó đi; 11 kìa, chúng nó báo lại chúng tôi dường nào, đến toan đuổi chúng tôi khỏi sản nghiệp Chúa đã ban cho chúng tôi nhận lấy. 12 Hỡi Đức Chúa Trời chúng tôi ôi, chớ thì Ngài sẽ không xét đoán chúng nó sao? Vì nơi chúng tôi chẳng còn sức lực gì đối địch cùng đám quân đông đảo nầy đương đến hãm đánh chúng tôi, và chúng tôi cũng không biết điều gì mình phải làm; nhưng con mắt chúng tôi ngửa trông Chúa! 13 Cả Giu-đa đều đứng tại trước mặt Đức Giê-hô-va với các đứa nhỏ, vợ, và con cái mình.
14 Bấy giờ, tại giữa hội chúng, Thần Đức Giê-hô-va cảm động Gia-ha-xi-ên, con trai Xa-cha-ri, cháu Bê-na-gia, chắt Giê-hi-ên, chít Ma-tha-nia, là người Lê-vi thuộc về dòng A-sáp, 15 mà phán rằng: Hỡi các người Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem cùng vua Giô-sa-phát, hãy nghe! Đức Giê-hô-va phán cho các ngươi như vầy: Chớ sợ, chớ kinh hãi bởi cớ đám quân đông đảo này: Vì trận giặc nầy chẳng phải của các ngươi đâu, bèn là của Đức Chúa Trời. 16 Ngày mai, hãy đi xuống đón chúng nó: Kìa, chúng nó đi lên dốc Xít, các ngươi sẽ gặp chúng nó nơi đầu trũng, trước mặt đồng vắng Giê-ru-ên. 17 Trong trận nầy các ngươi sẽ chẳng cần gì tranh chiến; hãy dàn ra, đứng yên lặng mà xem thấy sự giải cứu của Đức Giê-hô-va ở cùng các ngươi. Hỡi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem! Chớ sợ, chớ kinh hãi; ngày mai, hãy đi ra đón chúng nó, vì Đức Giê-hô-va ở cùng các ngươi. 18 Giô-sa-phát bèn cúi sấp mặt xuống đất; và cả Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem đều sấp mình xuống trước mặt Đức Giê-hô-va mà thờ lạy Ngài. 19 Người Lê-vi về dòng Kê-hát và về dòng Cô-rê đều đứng dậy cất tiếng lớn mà khen ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.

Giô-sa-phát được thắng

20 Buổi sớm mai, chúng đều chỗi dậy thật sớm, kéo ra đồng vắng Thê-cô-a; đương lúc chúng đi, Giô-sa-phát đứng tại đó, mà nói rằng: Hỡi người Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem! Hãy nghe ta: Khá tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các ngươi sẽ vững chắc; hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được may mắn. 21 Khi người đã bàn nghị với dân sự, bèn lập những người ca xướng cho Đức Giê-hô-va mặc áo lễ thánh mà đi ra trước cơ binh ngợi khen Chúa rằng: Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài hằng có đời đời. 22 Đương lúc chúng khởi ca hát và ngợi khen, thì Đức Giê-hô-va đặt phục binh xông vào dân Am-môn, dân Mô-áp và những kẻ ở núi Sê-i-rơ đã đến hãm đánh Giu đa; và các dân ấy đều bị bại. 23 Dân Am-môn và dân Mô-áp dấy lên đánh dân ở núi Sê-i-rơ, đặng diệt chúng nó đi; khi đã diệt dân ở Sê-i-rơ rồi, thì chúng lại trở giết lẫn nhau. 24 Khi dân Giu-đa đến tháp canh nơi đồng vắng, nhìn đến đám quân đông đảo, thì thấy những thây nằm sải trên đất, chẳng có một ai thoát khỏi được. 25 Giô-sa-phát và dân sự người đến cướp lấy tài vật của chúng, thấy có nhiều của cải, xác chết, và đồ quí báu, bèn cướp lấy cho đến chừng đem đi không đặng; họ cướp lấy tài vật trong ba ngày, vì là rất nhiều. 26 Qua ngày thứ tư, họ nhóm hiệp tại trũng Bê-ra-ca, vì nơi đó họ ngợi khen Đức Giê-hô-va; bởi cớ ấy, người ta đặt tên chỗ đó là trũng Bê-ra-ca cho đến ngày nay. 27 Hết thảy người Giu-đa và người Giê-ru-sa-lem cùng Giô-sa-phát đi đầu trước, trở về Giê-ru-sa-lem cách vui vẻ; vì Đức Giê-hô-va đã làm cho chúng vui mừng, vì cớ quân thù nghịch mình bị đánh bại. 28 Chúng gảy đàn cầm, đàn sắt, và thổi sáo mà trở về Giê-ru-sa-lem, đến đền của Đức Giê-hô-va. 29 Khi các nước thiên hạ nghe Đức Giê-hô-va đã đánh bại quân thù nghịch của Y-sơ-ra-ên, thì lấy làm kinh hãi Đức Chúa Trời. 30 Vậy, nước của Giô-sa-phát được hòa bình, vì Đức Chúa Trời người ban cho người sự an nghỉ bốn bên.
31 Vậy, Giô-sa-phát làm vua nước Giu-đa; khi lên ngôi thì tuổi được ba mươi lăm, và người cai trị hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem; tên mẹ người là A-xu-ba, con gái của Si-li. 32 Người đi theo con đường của A-sa, cha người, không lìa bỏ, làm điều ngay thẳng trước mặt Đức Giê-hô-va. 33 Song người không trừ bỏ các nơi cao, và dân sự chưa dốc lòng tìm cầu Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. 34 Các công việc khác của Giô-sa-phát từ đầu đến cuối, đều chép trong truyện Giê-hu, con trai Ha-na-ni, và truyện ấy đã đem vào sách các vua Y-sơ-ra-ên.
35 Sau việc đó, Giô-sa-phát, vua Giu-đa, kết giao với A-cha-xia, vua Y-sơ-ra-ên; người nầy ăn ở rất gian ác. 36 Hai vua hội hiệp nhau đặng đóng tàu vượt đi Ta-rê-si; họ đóng tàu tại Ê-xi-ôn-Ghê-be. 37 Khi ấy, Ê-li-ê-xe, con trai Đô-đa-va ở Ma-rê-sa, nói tiên tri về vua Giô-sa-phát, mà rằng: Bởi vì vua kết giao với A-cha-xia, nên Đức Giê-hô-va đã hủy phá công việc vua; những tàu bèn bị bể nát, không vượt đi Ta-rê-si được.

20

Ƀing Môab, Ƀing Ammôn Laih Anŭn Ƀing Edôm Rai Pơblah Hăng Ƀing Yudah

1Tơdơi kơ anŭn ƀiă, ƀing Môab hăng ƀing Ammôn hrŏm hăng ƀing gŏp djru gơñu jing ƀing Meunim rai kiăng kơ pơblah hăng Yehôsaphat.
2Hơmâo đơđa mơnuih rai laĭ pơthâo kơ Yehôsaphat tui anai, “Hơmâo sa grup ƀing ling tơhan lu biă mă rai kiăng pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ih mơ̆ng lŏn čar Edôm, mơ̆ng gah ngŏ̱ kơ Rơsĭ Djai. Ƀing gơñu truh laih pơ plei Hazzôn-Tamar, jing plei arăng pơanăn jing plei In-Gedi.” 3Tơdang hơmư̆ tơlơi anŭn, Yehôsaphat rŭng răng laih anŭn hơduah tơña tơlơi djru mơ̆ng Yahweh yơh, laih anŭn ñu pơhaih tơlơi kŏm ƀơ̆ng huă kơ abih bang ƀing lŏn čar Yudah. 4Tui anŭn, ƀing ană plei lŏn čar Yudah rai hrŏm hơbĭt kiăng kơ hơduah tơña tơlơi djru mơ̆ng Yahweh. Sĭt yơh ƀing gơñu rai mơ̆ng rĭm plei pla amăng lŏn čar Yudah yơh kiăng kơ hơduah tơña Ñu.
5Ƀing gơñu laih anŭn ƀing ană plei Yerusalaim pơjơnum glaĭ ƀơi sang yang Yahweh jing ƀơi gah anăp kơ wăl tơdron phrâo laih anŭn Yehôsaphat dŏ dơ̆ng gah anăp ƀing pơjơnum glaĭ anŭn, 6hăng iâu laĭ tui anai,
“Ơ Yahweh, Ơi Adai ƀing ơi adon gơmơi hơi, Ih yơh jing Ơi Adai Pô dŏ amăng adai adih. Ih git gai wai lăng abih bang dêh čar ƀing lŏn čar. Tơlơi dưi kơtang dŏ amăng tơngan Ih laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô dưi pơkơdơ̆ng glaĭ hĭ hăng Ih ôh.
7Ơ Ơi Adai gơmơi hơi, Ih yơh hơmâo puh pơđuaĭ hĭ ƀing ană plei amăng anih lŏn anai ƀơi anăp ƀing ơi adon gơmơi, jing ƀing ană plei Ih Israel, laih anŭn pha brơi lŏn kŏng ngăn anai hlŏng lar kơ ƀing ană tơčô Abraham, jing gơyut gơyâo ih. 8Ƀing gơñu hơdip amăng anih lŏn anai laih anŭn pơdơ̆ng đĭ laih amăng lŏn anai sa boh sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Ih hăng laĭ tui anai, 9‘Tơdang hơmâo tơlơi truh sat truh ƀơi ƀing gơmơi, tơlơi phat kơđi hăng đao gưm, tơlơi kli̱n khe̱ng ƀôdah tơlơi ư̆ rơpa, laih anŭn tơdang ƀing gơmơi či dŏ dơ̆ng ƀơi anăp Ih gah anăp sang yang anai, jing anih ƀing gơmơi pơpŭ pơyom kơ Anăn Ih, laih anŭn ƀing gơmơi či kwưh rơkâo kơ Ih amăng tơlơi rŭng răng gơmơi, tui anŭn Ih yơh či hơmư̆ ƀing gơmơi hăng pơklaih hĭ ƀing gơmơi yơh.’
10“Samơ̆ ră anai, lăng bĕ hơget tơlơi ƀing Ammôn, ƀing Môab laih anŭn ƀing mơ̆ng Čư̆ Seir hlak ngă. Guai lŏn gơñu ih anăm brơi ôh kơ ƀing Israel wang blah tơdang ƀing gơñu tơbiă mơ̆ng lŏn čar Êjip. Tui anŭn, ƀing Israel wir đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing gơñu laih anŭn ƀu pơrai hĭ ƀing gơñu ôh. 11Rơkâo kơ Ih lăng bĕ, hiư̆m ƀing gơñu hlak kla glaĭ kơ ƀing gơmơi hăng tơlơi rai puh pơđuaĭ hĭ ƀing gơmơi mơ̆ng anih lŏn Ih hơmâo pha brơi laih kơ ƀing ơi adon gơmơi jing kŏng ngăn. 12Ơ Ơi Adai gơmơi hơi, Ih ƀu či phat kơđi ƀơi ƀing rŏh ayăt gơmơi ôh hă? Ƀing gơmơi ƀu hơmâo tơlơi dưi kiăng kơ dưi hĭ kơ ƀing ling tơhan lu anŭn hlak kơsung blah ƀing gơmơi ôh. Ƀing gơmơi ƀu thâo ôh hơget tơlơi či ngă, samơ̆ mơta gơmơi lăng kơnang ƀơi Ih yơh kiăng kơ pơklaih hĭ ƀing gơmơi.”
13Hlak anŭn, abih bang ƀing ană plei Yudah hrŏm hăng ƀing ană bơnai gơñu laih anŭn ƀing ană anet gơñu, dŏ dơ̆ng ƀơi anăp Yahweh pơ anŭn yơh.
14Giŏng anŭn, Yang Bơngăt Yahweh trŭn rai ƀơi sa čô Lêwi jing ană tơčô Asap tơdang ñu ăt dŏ dơ̆ng mơ̆n amăng ƀing dŏ pơjơnum anŭn. Anăn pô anŭn jing Yahaziêl, laih anŭn ñu jing ană đah rơkơi Zekharyah, tơčô Benayah, tơčĕ Yeiêl, tơhrĕ Matanyah.
15Yahaziêl laĭ tui anai, “Hơmư̆ bĕ, Ơ pơtao Yehôsaphat laih anŭn abih bang ƀing mơnuih hơdip amăng anih lŏn Yudah hăng amăng plei phŭn Yerusalaim hơi! Anai yơh jing tơlơi Yahweh laĭ kơ ƀing gih, ‘Anăm huĭ bra̱l ƀôdah tah hơtai ôh yua mơ̆ng ƀing ling tơhan lu anŭn, yuakơ tơlơi pơblah anŭn ƀu djơ̆ tơlơi pơblah lŏm kơ ƀing gih ôh, samơ̆ anŭn jing tơlơi pơblah lŏm kơ Ơi Adai yơh. 16Hrơi pơgi, trŭn nao pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing rŏh ayăt anŭn bĕ. Ƀing gơñu či đĭ rai tui hăng jơlan čư̆ jĕ plei Ziz, laih anŭn ƀing gih či bưp ƀing gơñu ƀơi hơnăl tuč kơ dơnung čư̆ jing jơlan đuaĭ nao pơ tơdron tač Yeruêl yơh. 17Ƀing gih ƀu či khŏm pơblah kơ tơlơi pơblah anai ôh. Kơđai glaĭ, dŏ dơ̆ng prap pre bĕ ƀơi anih gih pô. Dŏ tơguan bĕ hăng ƀuh tơlơi pơklaih Yahweh či pha brơi kơ ƀing gih yơh, Ơ ƀing lŏn čar Yudah wơ̆t hăng ƀing dŏ amăng plei Yerusalaim ăh. Anăm huĭ bra̱l ôh! Anăm tah hơtai ôh! Tơbiă nao anăp pơ ƀing gơñu bĕ hrơi pơgi yuakơ Yahweh či dŏ hăng ƀing gih yơh.’ ”
18Pơtao Yehôsaphat bon kơkuh ƀô̆ mơta ñu sŏ̱ lŏn laih anŭn abih bang ƀing lŏn čar Yudah hăng ƀing dŏ amăng plei Yerusalaim ăt bon kơkuh ƀơi anăp Yahweh mơ̆n. 19Giŏng anŭn, đơđa ƀing Lêwi mơ̆ng djuai Kehat hăng Kôrah dŏ dơ̆ng laih anŭn kơkuh pơpŭ kơ Yahweh, Ơi Adai ƀing Israel, hăng dơnai kraih biă mă.
20Ƀơi mông mơguah ưm ƀing gơñu prap pre kiăng rơbat nao pơ tơdron ha̱r Tekoa. Tơdang ƀing gơñu hlak tơbiă nao, pơtao Yehôsaphat dŏ dơ̆ng hăng laĭ tui anai, “Hơmư̆ kâo bĕ, Ơ ƀing lŏn čar Yudah laih anŭn ƀing dŏ amăng plei Yerusalaim hơi! Đaŏ kơnang bĕ kơ Yahweh Ơi Adai ta laih anŭn ƀing gih či dŏ kơjăp yơh. Đaŏ kơnang kơ ƀing pô pơala Ñu laih anŭn ƀing gih či dưi jing yơh.” 21Tơdơi kơ pơhiăp djru pơmĭn kơ ƀing khua djă̱ akŏ ƀing ană plei, Yehôsaphat ruah đơđa ƀing mơnuih kiăng kơ tơbiă nao gah anăp kơ ƀing ling tơhan laih anŭn adoh bơni kơ Yahweh yuakơ tơlơi kơdrưh kơang tơlơi rơgoh hiam Ñu tui anai,
  Hơdơr bơni bĕ kơ Yahweh,
   yuakơ tơlơi khăp hiam klă Ñu ăt dŏ truh kơ hlŏng lar.
22Tơdang ƀing gơñu čơdơ̆ng adoh hăng bơni hơơč, Yahweh brơi đơđa mơnuih krăp pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing ling tơhan Ammôn, Môab laih anŭn Čư̆ Seir yơh jing ƀing wang blah lŏn čar Yudah laih anŭn ƀing gơñu rŭng răng thuơ hĭ yơh. 23Ƀing ling tơhan lŏn čar Ammôn laih anŭn Môab tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing ling tơhan mơ̆ng Čư̆ Seir kiăng kơ pơrai hĭ abih bang ƀing gơñu yơh. Tơdơi kơ ƀing gơñu pơdjai hĭ ƀing ling tơhan mơ̆ng lŏn čar Seir laih, ƀing gơñu pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơrai hĭ tơdruă gơñu pô yơh.
24Tơdang ƀing ling tơhan Yudah nao truh pơ anih ƀing gơñu dưi lăng nao pơ tơdron ha̱r, ƀing gơñu lăng ƀuh ƀing ling tơhan lu anŭn kơnơ̆ng jing khul atâo djai ƀơi lŏn đôč. Ƀu hơmâo hlơi pô ôh đuaĭ tơklaih hĭ. 25Tui anŭn, pơtao Yehôsaphat hăng ƀing ling tơhan ñu nao mă tŭ gơnam sua mă yơh. Ƀing gơñu hơduah ƀuh lu gơnam yua, sum ao laih anŭn gơnam yom pơkŏn, anŭn jing hloh kơ ƀing gơñu dưi mă glaĭ yơh. Hơmâo lu biă mă gơnam sua mă anŭn tơl amăng klâo hrơi kăh ƀing gơñu dưi mă glaĭ abih. 26Amăng hrơi tal pă̱, ƀing gơñu pơƀut glaĭ amăng dơnung Berakhah, jing anih ƀing gơñu bơni hơơč kơ Yahweh. Anŭn yơh yua hơget arăng pơanăn dơnung anŭn jing Dơnung Berakhah hlŏng truh kơ tă anai.
27Giŏng anŭn, pơtao Yehôsaphat ba glaĭ abih bang ƀing ling tơhan Yudah wơ̆t hăng ƀing mơ̆ng plei Yerusalaim wơ̆t glaĭ pơ plei anŭn hăng tơlơi hơ̆k mơak biă mă, yuakơ Yahweh hơmâo ngă brơi laih kơ ƀing gơñu hơ̆k mơak dưi hĭ kơ ƀing rŏh ayăt gơñu. 28Tơdang ƀing gơñu kơsung nao pơ plei Yerusalaim, ƀing gơñu adoh bơni hăng khul go̱ng trưng, go̱ng trap hăng tơdiăp laih anŭn nao pơ sang yang Yahweh yơh.
29Tơdang abih bang ƀing lŏn čar jum dar hơmư̆ hiư̆m Yahweh hơmâo pơblah hăng pơkơdơ̆ng glaĭ laih hăng ƀing rŏh ayăt ƀing Israel, ƀing gơñu huĭ bra̱l kơ Ơi Adai. 30Tui anŭn, lŏn čar pơtao Yehôsaphat dŏ rơnŭk rơno̱m yơh yuakơ Ơi Adai ñu hơmâo pha brơi kơ ñu pơdơi mơ̆ng djŏp bơnăh.

Hơnăl Tuč Kơ Tơlơi Pơtao Yehôsaphat Git Gai Wai Lăng

(1 Ƀing Pơtao 22:41-50)

31Tui anŭn, pơtao Yehôsaphat git gai wai lăng lŏn čar Yudah. Ñu hơmâo klâopluh-rơma thŭn laih tơdang ñu jing pơtao lŏn čar Yudah laih anŭn ñu git gai wai lăng amăng plei phŭn Yerusalaim duapluh-rơma thŭn. Anăn amĭ ñu jing HʼAzubah, jing ană đah kơmơi Silhi. 32Amăng abih bang tơlơi ñu rơbat tui amăng khul jơlan hiam klă ama ñu Asa hơmâo rơbat laih, laih anŭn ñu ƀu wir đuaĭ hĭ ôh mơ̆ng khul jơlan anŭn. Ñu ngă tơlơi tơpă hơnơ̆ng ƀơi anăp Yahweh. 33Samơ̆ khul sang anet kơkuh pơpŭ yang rơba̱ng ƀơi anih glông ñu ƀu pơrai hĭ ôh, laih anŭn ƀing ană plei aka ƀu pioh abih pran jua gơñu đuaĭ tui Ơi Adai ƀing ơi adon gơñu ôh.
34Bơ kơ khul tơlơi truh amăng rơnŭk pơtao Yehôsaphat git gai wai lăng, čơdơ̆ng mơ̆ng blung hlâo truh pơ hơnăl tuč arăng čih pioh laih amăng hră bruă mơnuă ƀing pơtao Israel.
35Tơdơi kơ anŭn, Yehôsaphat pơtao lŏn čar Yudah pơjing gŏp djru hăng Ahayahu pơtao lŏn čar Israel, tơlơi bruă Yehôsaphat ngă anŭn jing sat ƀai biă mă. 36Ñu ăt tŭ ư hrŏm hơbĭt hăng pơtao anŭn mơ̆n kiăng kơ pơkra sa grup sŏng prŏng sĭ mơnia ƀơi plei Ezyôn-Geber. 37Eliezer ană đah rơkơi Dôdawahu mơ̆ng plei Marêsah laĭ lui hlâo pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao Yehôsaphat tui anai, “Yuakơ ih hơmâo pơjing laih gŏp djru hăng pơtao Ahazyah, Yahweh či pơrai hĭ khul sŏng ih hơmâo pơkra laih.” Tui anŭn, khul sŏng prŏng pơčah hĭ laih anŭn ƀu dưi pơđu̱ng nao sĭ mơnia ôh.