6

Lễ khánh thành đền thờ, và bài cầu nguyện của Sa-lô-môn

1 Bấy giờ, Sa-lô-môn nói rằng: Đức Giê-hô-va đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong nơi tối thẳm. 2 Nhưng tôi đã cất một cái đền cho Chúa trú ngụ, một nơi cho Chúa ở đời đời. 3 Đoạn vua xây mặt lại chúc phước cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên; cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 4 Người nói: Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã phán hứa với Đa-vít, cha tôi, và nay lấy tay Ngài mà làm cho thành lời hứa ấy; Ngài rằng: 5 Từ ngày ta đem dân ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, ta chưa chọn một thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất một cái đền, để đặt danh ta tại đó, và ta cũng chẳng chọn người nào làm vua chúa trên dân Y-sơ-ra-ên ta; 6 nhưng ta đã chọn Giê-ru-sa-lem, để đặt danh ta tại đó, và chọn Đa-vít đặng cai trị dân Y-sơ-ra-ên ta. 7 Vả, Đa-vít, cha tôi, đã rắp lòng xây đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên. 8 Nhưng Đức Giê-hô-va phán với Đa-vít, cha tôi, rằng: Ngươi có rắp lòng cất một cái đền cho danh ta, ấy thật phải lắm; 9 dầu vậy, ngươi sẽ chẳng cất đền ấy; song con trai ngươi sanh ra sẽ cất cái đền cho danh ta. 10 Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán, khiến tôi kế cho Đa-vít, cha tôi, lên ngôi trị vì Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa: nên tôi có cất đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, 11 và tại đền ấy đã đặt cái hòm đựng giao ước của Đức Giê-hô-va mà Ngài lập với dân Y-sơ-ra-ên.
12 Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay mình ra 13 (vì người đã đóng một cái sạp bằng đồng, bề dài năm thước, bề ngang năm thước, bề cao ba thước, để tại giữa hành lang; người đứng tại đó, quì gối xuống trước mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay lên trên trời), 14 mà rằng: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Trên trời và dưới đất, chẳng có thần nào giống như Chúa. Chúa gìn giữ lời giao ước và lòng nhân từ đối với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ hết lòng đi trước mặt Chúa; 15 đối với tôi tớ Chúa là Đa-vít, cha tôi, Chúa có gìn giữ lời Chúa đã hứa với người: Thật hễ điều gì miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm cho hoàn thành, y như đã có ngày nay. 16 Vậy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa là Đa-vít, cha tôi, rằng: Ví bằng con cháu ngươi cẩn thận đường lối mình, giữ theo các luật pháp ta, y như ngươi đã làm, thì trước mặt ta ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên; nay cầu xin Chúa hãy giữ gìn lời hứa ấy. 17 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Nguyện lời Chúa đã hứa cùng Đa-vít, tôi tớ Chúa, được ứng nghiệm. 18 Mà chi! Có thật rằng Đức Chúa Trời ngự chung với loài người ở trên đất ư? Kìa trời, cho đến đỗi trời của các từng trời còn chẳng có thể chứa Chúa được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất! 19 Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi ôi! Xin hãy đoái thương lời cầu nguyện và sự nài xin của tôi tớ Chúa, nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện của tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa. 20 Nguyện mắt Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, vì về nhà nầy Chúa đã phán rằng: Sẽ đặt danh Chúa tại đó. Khi tôi tớ Chúa hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xin Chúa dủ nghe. 21 Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ cầu khẩn trong khi hướng về nơi nầy, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
22 Nếu ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt nó phải thề, nếu nó đến thề ở trước bàn thờ của Chúa tại trong đền nầy, 23 thì xin Chúa từ trên trời hãy nghe, thi hành, và xét đoán tôi tớ Chúa, mà báo trả kẻ ác tùy việc nó làm, khiến tội nó đổ lại trên đầu nó, xưng công bình cho người công bình, và thưởng người tùy sự công bình của người.
24 Nếu dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì phạm tội với Chúa, bị quân thù nghịch đánh được, mà chúng trở lại cùng Chúa, nhận biết danh Ngài, và cầu nguyện nài xin trước mặt Chúa trong đền nầy, 25 thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về xứ mà Chúa đã ban cho họ và cho tổ phụ của họ.
26 Khi các từng trời đóng chặt, không có mưa, bởi vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội với Chúa; nếu sau khi Chúa đã đoán phạt họ, họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, trở bỏ tội lỗi mình, 27 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho kẻ tôi tớ Chúa và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, khi Ngài đã dạy cho chúng con đường lành mà chúng phải đi theo, và giáng mưa xuống trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp. 28 Nếu trong xứ có cơn đói kém, ôn dịch, đại hạn, ten sét, cào cào, hay là châu chấu; hoặc kẻ thù nghịch vây hãm các thành trong địa phận họ; bất kỳ có tai vạ gì, tật bịnh gì; 29 ví bằng có một người, hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa đã nhận biết tai vạ và sự đau đớn của mình, mà giơ tay ra hướng về nhà nầy, cầu nguyện và khẩn xin vô luận điều gì, 30 thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe, tha thứ cho, và báo lại cho mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết được lòng của con cái loài người); 31 để khiến chúng kính sợ Chúa, đi theo đường lối của Chúa trọn đời chúng sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi.
32 Vả lại, về người ngoại bang là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh lớn Chúa, vì cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Ngài, họ sẽ từ xứ xa đi đến hướng về đền này mà cầu nguyện, 33 thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe, và làm theo mọi điều người ngoại bang ấy cầu xin Chúa; hầu cho muôn dân trên đất nhận biết danh Chúa, kính sợ Ngài như dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và biết rằng cái đền này mà tôi đã xây cất, được gọi bằng danh Chúa.
34 Khi dân sự Chúa ra chiến tranh với kẻ thù nghịch mình, theo đường nào mà Chúa sẽ sai đi, nếu chúng cầu nguyện cùng Chúa, xây về hướng thành nầy mà Chúa đã chọn, và về đền nầy mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, 35 thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực cho họ.
36 Nếu dân Y-sơ-ra-ên phạm tội với Chúa (vì chẳng có người nào mà không phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng cho kẻ thù nghịch, và kẻ thù nghịch bắt họ làm phu tù dẫn đến xứ xa hay gần; 37 nếu trong xứ mà họ bị dẫn đến làm phu tù, họ suy nghĩ lại, ăn năn, và cầu khẩn Chúa, mà rằng: Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác và cư xử cách dữ tợn, 38 nếu tại trong xứ mà kẻ thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, 39 thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của chúng, binh vực họ, và tha thứ tội mà dân sự của Chúa đã phạm cùng Ngài.
40 Vậy, Đức Chúa Trời tôi ôi! Bây giờ cầu xin Chúa đoái thương và lắng tai nghe phàm lời nào cầu nguyện trong nơi nầy. 41 Nầy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy chỗi dậy, để Chúa và hòm quyền năng Ngài được vào nơi an nghỉ Ngài! Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời! Nguyện những thầy tế lễ Chúa được mặc sự cứu rỗi, và các thánh đồ Chúa được mừng rỡ trong sự nhân từ Ngài! 42 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời! xin chớ từ bỏ kẻ chịu xức dầu của Chúa; khá nhớ lại các sự nhân từ của Chúa đối với Đa-vít, là kẻ tôi tớ Ngài.

6

Tơlơi Pơtao Solomôn Bơni Hiam Kơ Ƀing Ană Plei Israel

(1 Ƀing Pơtao 8:12-21)

1Giŏng anŭn, pơtao Solomôn iâu laĭ tui anai, “Ơ Yahweh hơi, Ih hơmâo pơhiăp laih kơ tơlơi Ih či dŏ amăng kơthul kơnăm mơmŏt; 2kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih kơ Ih sang yang kơdrưh anai, jing sa anih kơ Ih dŏ hlŏng lar.”
3Tơdang abih bang ƀing Israel pơjơnum glaĭ hlak dŏ dơ̆ng pơ anŭn, pơtao wir nao pơ ƀing gơñu laih anŭn bơni hiam kơ ƀing gơñu yơh. 4Ñu laĭ tui anai:
“Bơni hơơč kơ Yahweh, Ơi Adai ƀing Israel, jing Pô kơtang mơyang hơmâo pơkrĕp truh hĭ laih hơdôm tơlơi Ñu ƀuăn mơ̆ng amăng bah Ñu pô hăng ama kâo pơtao Dawid. Ñu laĭ laih tui anai:
5Čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi Kâo ba tơbiă laih ƀing ană plei Kâo Israel mơ̆ng lŏn čar Êjip, Kâo ƀu hơmâo ruah mă ôh sa boh plei pă mơ̆ng ƀing kơnung djuai Israel kiăng kơ ƀing gơñu pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ ƀing gơñu pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo pơ anŭn, laih anŭn Kâo kŏn ruah hlơi pô lơi kiăng kơ jing pô dui ba ƀing ană plei Kâo Israel. 6Samơ̆ ră anai Kâo hơmâo ruah mă laih plei phŭn Yerusalaim kiăng kơ ƀing ană plei Kâo pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo pơ anŭn laih anŭn Kâo ăt hơmâo ruah mă laih ih mơ̆n, Dawid, kiăng kơ git gai wai lăng ƀing ană plei Kâo Israel.”
7Pơtao Solomôn pơhiăp dơ̆ng tui anai,
“Ama kâo Dawid hơmâo pơmĭn pơphŭn laih amăng pran jua ñu kiăng pơdơ̆ng đĭ sa boh sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel.
8Samơ̆ Yahweh pơhiăp laih hăng ama kâo Dawid tui anai: Hiam yơh ih hơmâo tơlơi anŭn amăng pran jua ih kiăng pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo, yuakơ anŭn jing amăng pran jua ih yơh. 9Wơ̆t tơdah tui anŭn, ƀu djơ̆ ih ôh jing pô či pơdơ̆ng đĭ sang yang. Pô či pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo jing ană đah rơkơi ih, jing pô tơbiă rai mơ̆ng drah kơtăk ih pô yơh.
10“Yahweh hơmâo djă̱ pioh tơlơi Ñu ƀuăn laih. Kâo hơmâo đĭ ngă pơtao tŏ tui laih ama kâo Dawid laih anŭn ră anai kâo jing pơtao ƀing Israel, kar hăng tơlơi Yahweh ƀuăn brơi laih. Kâo ăt hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih mơ̆n sang yang anŭn kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel. 11Sĭt kâo hơmâo pioh laih hip tơlơi pơgop Yahweh pơ anŭn. Amăng hip anŭn yơh Môseh pioh mŭt dua boh hơnăl pơtâo hơmâo tơlơi pơgop Yahweh, jing tơlơi Ñu hơmâo pơjing laih hăng ƀing ană plei Israel hlâo adih.”

Pơtao Solomôn Iâu Laĭ Pơyơr Sang Yang

(1 Ƀing Pơtao 8:22-53)

12Giŏng anŭn, pơtao Solomôn dŏ dơ̆ng gah anăp kơnưl Yahweh, jing ƀơi anăp kơ abih bang ƀing Israel pơjơnum glaĭ laih anŭn ñu yơr đĭ tơngan ñu. 13Hlâo kơ anŭn, ñu pơkra laih sa boh adri̱ng ko̱ng, rơyong glông rơma haih, tơda glông rơma haih laih anŭn dơ̆ng glông klâo haih. Ñu ăt pioh adri̱ng anŭn ƀơi tŏng krah amăng wăl tơdron gah rơngiao sang yang mơ̆n laih anŭn ñu dŏ dơ̆ng ƀơi adri̱ng anŭn, giŏng anŭn ñu tŏ tơŭt ƀơi anăp abih bang ƀing Israel pơjơnum glaĭ pơ anŭn. 14Ñu iâu laĭ tui anai:
  Ơ Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel hơi,
   sĭt ƀu hơmâo ôh Ơi Adai pơkŏn hrup hăng Ih amăng adai adih ƀôdah ƀơi lŏn tơnah anai.
  Kơnơ̆ng hơjăn Ih djă̱ pioh tơlơi khăp pơgop Ih
   laih anŭn pơrơđah tơlơi khăp hiam klă Ih kơ ƀing ding kơna Ih,
   jing ƀing ăt đuaĭ tui amăng jơlan Ih hăng abih pran jua.
  15Hrơi anai, Ih hơmâo djă̱ pioh laih tơlơi Ih ƀuăn hăng ding kơna Ih Dawid jing ama kâo.
   Sĭt hăng amăng bah Ih yơh Ih hơmâo ƀuăn laih,
   laih anŭn hăng tơngan Ih yơh Ih hơmâo pơkrĕp truh hĭ laih.

  16Ră anai, Ơ Yahweh jing Ơi Adai ƀing Israel hơi,
   djă̱ pioh brơi bĕ kơ ding kơna Ih Dawid ama kâo khul tơlơi Ih ƀuăn laih hăng ñu dơ̆ng tơdang Ih laĭ tui anai,
  “Ih ƀu či rơngiă hĭ ôh pô ană tơčô ih dŏ ƀơi grê pơtao kiăng kơ git gai wai lăng lŏn čar Israel,
   tơdah ƀing ană tơčô ih anŭn kơnơ̆ng răng pơñen rơbat tŏng ten ƀơi anăp Kâo tui hăng tơlơi juăt Kâo
   kar hăng tơlơi ih hơmâo ngă laih.”
  17Hơnŭn yơh ră anai, Ơ Yahweh Ơi Adai ƀing Israel hơi,
   brơi bĕ boh hiăp Ih ƀuăn laih hăng ding kơna Ih Dawid pơkrĕp truh sĭt.

  18Samơ̆ Ih, jing Ơi Adai, hiư̆m ngă Ih či dŏ ƀơi lŏn tơnah anai hăng mơnuih mơnam biă mă hă?
   Sĭt khul tal adai wơ̆t hăng adai glông hloh ăt kŏn dưi krư̆ kăl hĭ Ih mơ̆n.
  Tui anŭn, sang yang kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih anai jing anet biă mă yơh!
  19Samơ̆ rơkâo kơ Ih pơđi̱ng tơngia bĕ kơ tơlơi ding kơna Ih kâo anai iâu laĭ
   laih anŭn kơ tơlơi kâo kwưh rơkâo kơ tơlơi khăp pap, Ơ Yahweh Ơi Adai kâo hơi.
  Hơmư̆ bĕ tơlơi bơni hơơč laih anŭn tơlơi iâu laĭ ding kơna Ih kâo anai hlak iâu laĭ ƀơi anăp Ih.
  20Ih ƀuăn laih Ih či ruah sang yang kiăng kơ pioh Anăn Ih pơ anŭn
   tui anŭn kwưh kiăng mơta Ih lăng trŭn pơ sang yang anai hrơi mlam,
   kiăng kơ Ih dưi hơmư̆ tơlơi ding kơna Ih kâo anai iâu laĭ anăp nao pơ anih anai.
  21Hơmư̆ bĕ tơlơi kwưh rơkâo kơ tơlơi pap mơ̆ng ding kơna Ih kâo anai laih anŭn mơ̆ng ană plei Ih Israel
   tơdang ƀing gơmơi iâu laĭ anăp nao pơ anih anai.
  Hơmư̆ bĕ mơ̆ng adai adih, jing anih Ih dŏ,
   laih anŭn tơdang Ih hơmư̆, rơkâo Ih pap brơi bĕ.

  22Tơdang arăng phŏng kơđi kơ hlơi pô pơsoh hĭ pô re̱ng gah ñu
   laih anŭn khŏm rai ƀơi anăp kơnưl ngă yang Ih amăng sang yang anai,
   kiăng kơ ƀuăn rơ̆ng kơ tơlơi ñu ƀu ngă soh ôh,
  23tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ hăng laĭ glaĭ đa bĕ mơ̆ng adai adih,
   laih anŭn phat brơi bĕ tŏng krah dua čô ding kơna Ih anŭn.
  Giŏng anŭn, pơkơhma̱l bĕ mơnuih ngă soh laih anŭn pioh glaĭ bĕ ƀơi akŏ ñu pô hơget tơlơi ñu hơmâo ngă sat laih,
   samơ̆ pơhaih bĕ kơ pô ƀu ngă soh jing hĭ agaih yuakơ tơlơi tơpă hơnơ̆ng gơ̆.

  24Tơdang ƀing rŏh ayăt blah juă hĭ ƀing ană plei Ih Israel,
   yuakơ ƀing gơ̆ hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih,
  tơdah ƀing gơ̆ wơ̆t glaĭ pơ Ih
   laih anŭn pơhaih Ih jing Ơi Adai ƀing gơ̆,
   iâu laĭ laih anŭn kwưh pơđu̱r kơ Ih amăng sang yang anai,
  25tui anŭn rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih
   laih anŭn pap brơi tơlơi soh ƀing ană plei Ih Israel anai.
  Giŏng anŭn, ba glaĭ bĕ ƀing gơ̆ pơ anih lŏn anai,
   jing anih lŏn Ih hơmâo pha brơi laih kơ ƀing gơ̆
   laih anŭn kơ ƀing ơi adon ƀing gơ̆.

  26Tơdang khul tal adai kho̱ng ƀu hơmâo hơjan ôh
   yuakơ ƀing ană plei Ih hơmâo ngă soh laih pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih,
  tơdah ƀing gơñu iâu laĭ anăp nao pơ anih anai,
   pơhaih Ih jing Ơi Adai gơñu laih anŭn đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng khul tơlơi soh sat gơñu
   yuakơ Ih hơmâo pơruă hĭ laih ƀing gơñu,
  27tui anŭn rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih
   laih anŭn pap brơi tơlơi soh ƀing ding kơna Ih, jing ană plei Ih Israel anai.
  Pơtô bĕ kơ ƀing gơñu jơlan djơ̆ kiăng kơ hơdip
   laih anŭn brơi rai bĕ ia hơjan ƀơi anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ană plei Ih jing gơnam kŏng ngăn gơñu anŭn.

  28Tơdang tơlơi ư̆ rơpa ƀôdah tơlơi kli̱n khe̱ng truh ƀơi anih lŏn anai,
   angĭn pơiă ƀôdah kơmao mơoai, khul kơtop ƀôdah khul kơtop kơplŏng pơrai hĭ gơnam tăm,
  ƀôdah tơdang ƀing rŏh ayăt wang blah ƀing gơñu amăng khul plei pla gơñu,
   hơget tơlơi răm rai ƀôdah hơget tơlơi ruă tơnap truh tơl,
  29tui anŭn tơdah kơnơ̆ng sa čô đôč ƀôdah abih bang ƀing ană plei Ih Israel iâu laĭ ƀôdah kwưh rơkâo,
   yuakơ pơmưn tơlơi ruă rơngot hăng tơlơi pơkrao
   laih anŭn yơr đĭ tơngan anăp nao pơ sang yang anai,
  30tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih, jing anih Ih dŏ.
   Hơmư̆ brơi đa laih anŭn pap brơi bĕ.
  Ngă bĕ kơ rĭm čô tui hăng abih bang tơlơi ñu ngă,
   yuakơ Ih thâo krăn laih pran jua ñu,
   sĭt kơnơ̆ng hơjăn Ih yơh thâo krăn abih bang pran jua mơnuih mơnam.
  31Tui anŭn yơh, ƀing gơñu či huĭ pơpŭ kơ Ih
   laih anŭn rơbat amăng jơlan Ih amăng abih tơlơi hơdip gơñu,
   amăng anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ơi adon gơmơi anai.

  32Bơ kơ ƀing tuai jing ƀing ƀu lŏm ôh kơ ană plei Ih Israel,
   đơđa ƀing gơñu či rai mơ̆ng anih lŏn ataih
   yuakơ tơlơi hing ang anăn prŏng prin Ih,
   laih anŭn khul tơlơi mơsêh mơyang Ih ngă laih hăng tơlơi dưi kơtang Ih jing hăng hơpăl tơngan Ih yơr tơbiă.
  Tơdang ƀing gơñu rai iâu laĭ anăp nao pơ sang yang anai,
  33rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih, jing mơ̆ng anih Ih dŏ,
   laih anŭn ngă brơi bĕ hơget tơlơi pô tuai anŭn rơkâo kơ Ih,
  kiăng kơ abih bang mơnuih mơnam ƀơi lŏn tơnah anai dưi đaŏ kơnang kơ anăn Ih laih anŭn huĭ pơpŭ kơ Ih,
   kar hăng ană plei Ih pô jing ƀing Israel huĭ pơpŭ kơ Ih,
   laih anŭn kiăng kơ ƀing gơñu dưi thâo krăn sĭt sang yang anai kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ jing anih pơpŭ pơyom kơ Anăn Ih yơh.

  34Tơdang ƀing ană plei Ih tơbiă nao pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing rŏh ayăt gơñu,
   pơpă anih Ih pơkiaŏ ƀing gơñu nao,
   laih anŭn tơdang ƀing gơñu iâu laĭ kơ Ih anăp nao pơ plei Ih hơmâo ruah laih anai,
   laih anŭn anăp nao pơ sang yang Ih anai kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih
   kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Ih,
  35tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih kơ tơlơi ƀing gơ̆ iâu laĭ laih anŭn kwưh rơkâo kơ tơlơi pap,
   laih anŭn ngă bĕ tơlơi tơpă hơnơ̆ng kơ ƀing gơ̆.

  36Ƀu hơmâo hlơi pô ôh ƀu ngă soh.
  Tui anŭn, tơdang ƀing ană plei Ih ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih,
   năng ai Ih či hil biă mă kơ ƀing gơñu tơl Ih jao hĭ ƀing gơñu kơ rŏh ayăt,
   jing ƀing mă hĭ ƀing gơ̆ jing ƀing mơnă amăng anih lŏn gơñu pô, jing anih ataih ƀôdah jĕ.
  37Tơdơi kơ anŭn, năng ai ƀing gơñu pơplih hĭ pran jua gơñu jing amăng anih lŏn arăng mă ƀing gơñu jing mơnă anŭn,
   laih anŭn ƀing gơñu kơhma̱l hăng kwưh rơkâo ƀơi Ih amăng anih lŏn ƀing blah juă gơñu tui anai,
  “Ƀing gơmơi hơmâo ngă soh laih,
   ƀing gơmơi hơmâo ngă laih tơlơi wĕ wŏ;
   ƀing gơmơi hơmâo ngă laih tơlơi sat ƀai.”
  38Tơdah ƀing gơñu wơ̆t glaĭ pơ Ih hăng abih jua bơngăt gơñu
   amăng anih lŏn ƀing rŏh ayăt gơñu anŭn, jing ƀing mă laih ƀing gơñu ngă ƀing mơnă,
  laih anŭn tơdah ƀing gơñu iâu laĭ ƀơi Ih anăp nao pơ anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ơi adon gơñu,
   anăp nao pơ plei Ih hơmâo ruah laih anai,
   laih anŭn anăp nao pơ sang yang kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Ih,
  39tui anŭn mơ̆ng anih adai adih, jing anih dŏ Ih,
   rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ tơlơi ƀing gơñu iâu laĭ kwưh rơkâo kơ tơlơi pap
   laih anŭn laih anŭn ngă bĕ tơlơi tơpă hơnơ̆ng kơ ƀing gơñu.
  Rơkâo kơ Ih pap brơi bĕ ƀing ană plei Ih,
   jing ƀing hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ laih hăng Ih.

  40Hơnăl tuč, Ơ Ơi Adai kâo hơi, rơkâo kơ mơta Ih blang
   laih anŭn tơngia Ih pơđi̱ng hơmư̆ bĕ kơ hơdôm tơlơi ƀing gơmơi iâu laĭ amăng anih anai.

  41Ră anai, Ơ Yahweh Ơi Adai ăh, rơkâo kơ Ih tơgŭ rai dơ̆ng hlŏng lar bĕ amăng sang Ih anai,
   wơ̆t hăng Ih laih anŭn Hip Tơlơi Pơgop anŭn jing gru kơnăl tơlơi dưi kơtang Ih yơh.
  Kwưh kiăng kơ ƀing khua ngă yang Ih, Ơ Yahweh Ơi Adai hơi, buh hơô gơñu hăng tơlơi pơklaih,
   kwưh kiăng kơ ană plei tŏng ten Ih hơ̆k mơak amăng tơlơi hiam klă Ih yơh.
  42Ơ Yahweh Ơi Adai hơi, rơkâo kơ Ih anăm hơngah lui hĭ ôh pơtao gơmơi
   jing pô Ih trôč laih ia jâo kiăng pơrơđah kơ tơlơi dưi ñu.
  Ơ Yahweh hơi, hơdơr bĕ kơ Dawid hăng tơlơi hiam klă Ih.