1

Bài giảng thứ nhứt. – Khuyên xây lại đền thờ ở Giê-ru-sa-lem

1 Năm thứ hai đời vua Đa-ri-út, ngày mồng một tháng sáu, có lời của Đức Giê-hô-va cậy đấng tiên tri A-ghê phán cho Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-la-thi-ên, quan trấn thủ xứ Giu-đê, và cho Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, thầy tế lễ cả, mà rằng: 2 Đức Giê-hô-va vạn quân có phán như vầy: Dân nầy nói rằng: Thì giờ chưa đến, tức là thì giờ xây lại nhà Đức Giê-hô-va.
3 Vậy nên có lời của Đức Giê-hô-va phán ra bởi đấng tiên tri A-ghê rằng: 4 Nay có phải là thì giờ các ngươi ở trong nhà có trần ván, khi nhà nầy hoang vu sao? 5 Vậy bây giờ Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Các ngươi khá xem xét đường lối mình. 6 Các ngươi gieo nhiều mà gặt ít; ăn mà không no; uống mà không đủ; mặc mà không ấm; và kẻ nào làm thuê, đựng tiền công mình trong túi lủng.
7 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Các ngươi khá xem xét đường lối mình. 8 Hãy lên núi, đem gỗ về, và xây nhà nầy, thì ta sẽ lấy nó làm vui lòng, và ta sẽ được sáng danh, Đức Giê-hô-va phán vậy. 9 Các ngươi trông nhiều mà được ít; các ngươi đem vào nhà, thì ta đã thổi lên trên. Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Ấy là tại làm sao? Ấy là tại nhà ta thì hoang vu, mà các ngươi ai nấy lo xây nhà mình. 10 Cho nên, vì cớ các ngươi, trời giữ móc lại, và đất giữ bông trái lại. 11 Ta đã gọi cơn hạn hán đến trên đất, trên các núi, trên lúa mì, trên rượu mới, trên dầu, và trên sản vật đất sanh ra, trên loài người, trên loài vật, và trên mọi việc tay làm.
12 Vậy Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-la-thi-ên, và Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, thầy tế lễ cả, cùng cả dân sót lại vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và lời của đấng tiên tri A-ghê mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình đã sai đến, thì dân sự đều sợ sệt trước mặt Đức Giê-hô-va. 13 A-ghê, sứ giả của Đức Giê-hô-va bèn nói cùng dân sự theo lịnh truyền của Đức Giê-hô-va, mà rằng: Ta ở cùng các ngươi, Đức Giê-hô-va phán vậy.
14 Đoạn, Đức Giê-hô-va giục lòng Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-la-thi-ên, quan trấn thủ Giu-đa, và giục lòng Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, thầy tế lễ cả, và giục lòng cả dân sự sót lại; họ đều đến, làm việc nơi nhà Đức Giê-hô-va vạn quân, là Đức Chúa Trời mình. 15 Ấy là ngày hai mươi bốn tháng sáu về năm thứ hai đời vua Đa-ri-út.

1

Yiang Sursĩ Ớn Atức Loah Dống Sang Toâr

1Tâng tangái muoi, casâi tapoât, cumo bar Dari-ut cỡt sốt máh puo tâng cruang Pơ-sia, Yiang Sursĩ atỡng Hacai, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ. Án ớn Hacai dững parnai nâi atoâq pỡ Saru-babel con samiang Sial-tiel cớp Yô-sũa con samiang Yê-hô-sadac. Saru-babel la cũai sốt cruang Yuda, cớp Yô-sũa la sốt nheq tễ rit sang Yiang Sursĩ.
2Nâi la santoiq Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq atỡng Hacai: “Máh cũai proai nâi dốq pai neq: ‘Tỡ yũah toâq ngư táq loah tamái Dống Sang Toâr.’”
3Chơ Yiang Sursĩ chiau máh santoiq nâi yỗn Hacai atỡng máh cũai proai neq: 4“Máh cũai proai cứq ơi! Nŏ́q anhia ỡt tâng dống nêuq o lứq, ma Dống Sang Toâr cứq anhia táh yỗn rúng ralốh?”
5Nâi la parnai Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq pai neq: “Nŏ́q anhia tỡ bữn dáng ranáq ntrớu ễ toâq pỡ anhia? 6Anhia trứh cuplốq sa‑ữi, ma anhia bữn roaiq bĩq sâng. Anhia bữn crơng sana, mŏ cha tỡ pasâi. Anhia bữn blŏ́ng nho, mŏ nguaiq tỡ thrưong. Anhia tâc tampâc, ma tỗ tỡ sa‑âm. Anhia táq ranáq ntâng lứq, ma tỡ dũ siem tỗ bữm. 7Nŏ́q anhia tỡ bữn dáng tễ máh ranáq ễ toâq pỡ anhia tỡ? 8Sanua cóq anhia yuor tayứng, chơ pỡq chu máh cuar cóh dŏq chuaq aluang táq loah Dống Sang Toâr. Khân anhia táq ngkíq, ki cứq sâng bũi pahỡm chóq anhia, cớp yỗn anhia sang toam cớp yám noap cứq.
9“Anhia ngcuang bữn sot sa‑ữi, mŏ anhia bữn bĩq sâng. Toâq anhia dững achu saro pỡ dống, ma cứq cuhũh yỗn sapâr nheq. Cỗ nŏ́q cứq mŏ táq ngkíq? Cỗ Dống Sang Toâr cứq noâng rúng ralốh, mŏ dũ náq anhia tamprưo níc táq dống anhia bữm. 10Yuaq ngkíq, mia tỡ bữn sễng, cớp tỡ bữn acán ntrớu dáh. 11Cứq khoiq dững atoâq ranáq cahễng tâng cloong cutễq, máh cuar cóh, pỡ sarái, nưong nho, nưong o‑li‑vê, dếh máh crơng sarnóh anhia chóh dũ thữ ca dáh tâng cutễq nâi, cớp pỡ máh cũai cớp máh charán hỡ.”

Cũai Proai Tamứng Santoiq Yiang Sursĩ Patâp

12Chơ, Saru-babel con samiang Sial-tiel, cớp Yô-sũa con samiang Yê-hô-sadac, án ca sốt nheq tễ rit sang Yiang Sursĩ cớp nheq tữh cũai proai ca noau khoiq cỗp dững pỡ cruang Ba-bulôn, nheq alới khoiq píh chu loah, cớp alới ki táq puai santoiq Yiang Sursĩ, Ncháu alới, atỡng na Hacai, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ. Tỗp alới sâng ngcŏh, cớp trĩh máh santoiq Yiang Sursĩ atỡng. 13Chơ Hacai atỡng loah cũai proai tễ máh santoiq Yiang Sursĩ pai neq: “Cứq ỡt cớp anhia; nâi la santoiq cứq parkhán chóq anhia.”
14Yiang Sursĩ táq yỗn mứt pahỡm dũ náq cũai yoc rachuai táq loah Dống Sang Toâr. Cũai ki la neq: Saru-babel, sốt cruang Yuda; Yô-sũa, sốt nheq tễ máh rit sang; cớp máh cũai proai ca bữn píh chu loah tễ cruang Ba-bulôn. Tỗp alới tayoâq táq Dống Sang Toâr Yiang alới, la Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq. 15Alới tabŏ́q táq tâng tangái bar chít la pỗn, casâi tapoât, cumo bar Dari-ut cỡt sốt máh puo.