13

II.- Tin lành được giảng ra giữa dân ngoại

(Từ đoạn 13 đến đoạn 28)

Phao-lô và Ba-na-ba được sai đi giảng đạo cho người ngoại

1 Trong Hội thánh tại thành An-ti-ốt có mấy người tiên tri và mấy thầy giáo sư, tức là: Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út người Sy-ren, Ma-na-hem là người đồng dưỡng với vua chư hầu Hê-rốt, cùng Sau-lơ. 2 Đương khi môn đồ thờ phượng Chúa và kiêng ăn, thì Đức Thánh Linh phán rằng: Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ đặng làm công việc ta đã gọi làm. 3 Đã kiêng ăn và cầu nguyện xong, môn đồ bèn đặt tay trên hai người, rồi để cho đi.

Phao-lô và Ba-na-ba tại đảo Chíp-rơ. – Sê-giút Phau-lút trở lại đạo

4 Vậy, Sau-lơ và Ba-na-ba đã chịu Đức Thánh Linh sai đi, bèn xuống thành Sê-lơ-xi, rồi từ đó đi thuyền đến đảo Chíp-rơ. 5 Đến thành Sa-la-min, hai người giảng đạo Đức Chúa Trời trong các nhà hội của người Giu-đa; cũng có Giăng cùng đi để giúp cho. 6 Trải qua cả đảo cho đến thành Ba-phô rồi, gặp một người Giu-đa kia, là tay thuật sĩ và tiên tri giả, tên là Ba-Giê-su, 7 vốn ở với quan trấn thủ tên là Sê-giút Phau-lút là người khôn ngoan. Người nầy đã sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến, và xin nghe đạo Đức Chúa Trời. 8 Nhưng Ê-ly-ma, tức là thuật sĩ (ấy là ý nghĩa tên người), ngăn hai người đó, ráng sức tìm phương làm cho quan trấn thủ không tin. 9 Bấy giờ, Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, đầy dẫy Đức Thánh Linh, đối mặt nhìn người, nói rằng: 10 Hỡi người đầy mọi thứ gian trá và hung ác, con của ma quỉ, thù nghịch cùng cả sự công bình, ngươi cứ làm hư đường thẳng của Chúa không thôi sao? 11 Nầy, bây giờ tay Chúa giá trên ngươi; ngươi sẽ bị mù, không thấy mặt trời trong ít lâu. Chính lúc đó, có sự mù mịt tối tăm phủ trên người, người xây quanh bốn phía, tìm kẻ để dắt mình. 12 Quan trấn thủ thấy sự đã xảy đến, bèn tin, lấy làm lạ về đạo Chúa.

Lời giảng của Phao-lô tại thành An-ti-ốt xứ Bi-si-đi

13 Phao-lô với đồng bạn mình xuống thuyền tại Ba-phô, sang thành Bẹt-giê trong xứ Bam-phi-ly. Nhưng Giăng lìa hai người, trở về thành Giê-ru-sa-lem. 14 Về phần hai người, thì lìa thành Bẹt-giê, cứ đi đường đến thành An-ti-ốt xứ Bi-si-đi; rồi nhằm ngày Sa-bát, vào trong nhà hội mà ngồi. 15 Vừa đọc sách luật và sách các tiên tri xong, các chủ nhà hội sai sứ nói cùng hai người rằng: Hỡi anh em, nếu có mấy lời khuyên bảo dân chúng, hãy giảng đi.
16 Phao-lô bèn đứng dậy, lấy tay làm hiệu, rồi nói rằng: Hỡi người Y-sơ-ra-ên và các người kính sợ Đức Chúa Trời, hãy nghe: 17 Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên nầy đã chọn tổ phụ chúng ta; làm cho dân ấy thạnh vượng lúc ở ngụ nơi ngoại quốc, tức là trong xứ Ê-díp-tô, và Ngài dùng cánh tay cao dẫn họ ra khỏi xứ đó. 18 Ước chừng bốn mươi năm, Ngài chịu tánh nết họ trong nơi đồng vắng. 19 Lại khi đã phá bảy dân trong xứ Ca-na-an, Ngài khiến họ nhận lấy đất của các dân đó, 20 Độ trong bốn trăm năm mươi năm; kế đó Ngài lập cho họ các quan đoán xét cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. 21 Bấy giờ, dân đó xin một vị vua, nên Đức Chúa Trời ban Sau-lơ, con của Ki-sơ, về chi phái Bên-gia-min, trị họ trong bốn mươi năm; 22 đoạn, Ngài bỏ vua đó, lại lập Đa-vít làm vua, mà làm chứng về người rằng: Ta đã tìm thấy Đa-vít con của Gie-sê, là người vừa lòng ta, người sẽ tuân theo mọi ý chỉ ta. 23 Theo lời hứa, Đức Chúa Trời bèn bởi dòng dõi người mà dấy lên cho dân Y-sơ-ra-ên một Cứu Chúa, tức là Đức Chúa Jêsus. 24 Trước khi Đức Chúa Jêsus chưa đến, Giăng đã giảng dạy phép báp-têm về sự ăn năn cho cả dân Y-sơ-ra-ên. 25 Giăng đang lo làm trọn công việc mình, thì nói rằng: Ta chẳng phải là Đấng mà các ngươi tưởng; nhưng có Đấng đến sau ta, ta chẳng xứng đáng mở dây giày Ngài.
26 Hỡi anh em, là con cháu dòng Áp-ra-ham, và kẻ kính sợ Đức Chúa Trời, lời rao truyền sự cứu chuộc nầy đã phán cho chúng ta vậy. 27 Vì dân và các quan ở thành Giê-ru-sa-lem chẳng nhìn biết Đức Chúa Jêsus nầy, nên lúc xử tội Ngài, chúng đã ứng nghiệm lời của các đấng tiên tri mà người ta thường đọc trong mỗi ngày Sa-bát. 28 Dầu trong Ngài chẳng tìm thấy cớ gì đáng chết, họ cứ xin Phi-lát giết Ngài đi. 29 Họ đã làm cho ứng nghiệm mọi điều chép về Ngài rồi, thì hạ Ngài xuống khỏi thập tự giá mà chôn trong mả. 30 Song Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài từ kẻ chết sống lại. 31 Những kẻ theo Ngài từ xứ Ga-li-lê lên thành Giê-ru-sa-lem đã được thấy Ngài lâu ngày, và hiện nay đều làm chứng về Ngài giữa dân chúng. 32 Còn chúng tôi, thì rao truyền cho các anh em tin lành nầy về lời hứa ban cho tổ phụ chúng ta, 33 rằng Đức Chúa Trời bởi khiến Đức Chúa Jêsus sống lại thì đã làm ứng nghiệm lời hứa đó cho chúng ta là con cháu của tổ phụ, y như đã chép trong sách Thi thiên đoạn thứ hai rằng: Con là Con trai ta, ngày nay ta đã sanh Con. 34 Ngài đã làm cho Đức Chúa Jêsus sống lại, đặng nay khỏi trở về sự hư nát nữa, ấy về điều đó mà Ngài đã phán rằng: Ta sẽ thành tín giữ cùng các ngươi lời hứa thánh đã phán với Đa-vít. 35 Lại trong câu khác, cũng có phán rằng: Chúa chẳng cho Đấng Thánh Ngài thấy sự hư nát đâu. 36 Vả, vua Đa-vít lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời, đoạn qua đời; người đã được trở về cùng các tổ phụ mình, và đã thấy sự hư nát; 37 nhưng Đấng mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại, chẳng có thấy sự hư nát đâu. 38 Vậy, hỡi anh em, khá biết rằng nhờ Đấng đó mà sự tha tội được rao truyền cho anh em; 39 lại nhờ Ngài mà hễ ai tin thì được xưng công bình về mọi điều theo luật pháp Môi-se chẳng có thể được xưng công bình. 40 Nên, hãy giữ lấy cho khỏi mắc điều đã chép trong sách tiên tri rằng:
41 Hỡi kẻ hay khinh dể kia, khá xem xét, sợ hãi và biến mất đi;
 Vì trong đời các ngươi, ta sẽ làm một việc,
 Nếu có ai thuật lại cho, các ngươi cũng chẳng tin.
42 Khi hai người bước ra, chúng xin đến ngày Sa-bát sau cũng giảng luận các lời đó. 43 Lúc hội đã tan, có nhiều người Giu-đa và người mới theo đạo Giu-đa, đi theo Phao-lô và Ba-na-ba, hai người nói chuyện với họ và khuyên cứ vững lòng theo ơn Đức Chúa Trời.
44 Ngày Sa-bát sau, gần hết cả thành đều nhóm lại để nghe đạo Chúa. 45 Song những người Giu-đa thấy đoàn dân đó thì đầy lòng ghen ghét, nghịch cùng lời Phao-lô nói và mắng nhiếc người. 46 Phao-lô và Ba-na-ba bèn nói cùng họ cách dạn dĩ rằng: Ấy cần phải truyền đạo Đức Chúa Trời trước nhứt cho các ngươi; nhưng vì các ngươi đã từ chối, và tự xét mình không xứng đáng nhận sự sống đời đời, nên đây nầy, chúng ta mới xây qua người ngoại. 47 Vì Chúa có phán dặn chúng ta như vầy:
 Ta lập ngươi lên đặng làm sự sáng cho các dân,
 Hầu cho ngươi đem sự cứu rỗi cho đến cùng cõi đất.
48 Những người ngoại nghe lời đó thì vui mừng, ngợi khen đạo Chúa, và phàm những kẻ đã được định sẵn cho sự sống đời đời, đều tin theo.
49 Đạo Chúa tràn ra khắp trong xứ đó. 50 Nhưng các người Giu-đa xui giục những đàn bà sang trọng sốt sắng và dân đàn anh trong thành; gây sự bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, mà đuổi ra khỏi phần đất mình. 51 Hai người đối cùng họ phủi bụi nơi chân mình, rồi đi đến thành Y-cô-ni. 52 Còn các môn đồ thì được đầy dẫy sự vui vẻ và Đức Thánh Linh vậy.

13

Raviei Yiang Sursĩ Rưoh Ba-naba Cớp Salơ

1Tỗp sa‑âm Yê-su tâng vil Anti-ôt bữn máh cũai tang bỗq Yiang Sursĩ cớp bữn cũai canŏ́h atỡng parnai Yiang Sursĩ. Ramứh alới la neq: Ba-naba, Si-mê-ôn (noau dŏq án Ni-yê hỡ), Lusi-ut tễ cruang Si-rên, Mana-en (án la samoât sễm ai puo Hê-rôt yuaq alới bar náq noau rabán parnơi bo alới noâng cacớt), cớp Salơ. 2Bữn muoi tangái bo alới sang toam Yiang Sursĩ cớp ót sana, Raviei Yiang Sursĩ atỡng alới neq: “Anhia pác dŏq miar Ba-naba cớp Salơ yỗn táq máh ranáq cứq ớn alới táq.”
3Moâm alới ót sana cớp câu, chơ alới satoaq atĩ tâng Ba-naba cớp Salơ. Cớp alới ớn bar náq ki pỡq táq ranáq samoât Raviei Yiang Sursĩ ớn alới táq.

Phau-lô Cớp Ba-naba Tâng Cruang Sip-rơ

4Ngkíq Ba-naba cớp Salơ loŏh tễ ki, cớp pỡq chu vil Sê-lusi samoât Raviei Yiang Sursĩ ớn alới. Tễ vil ki alới pỡq na tuoc chu cỗn Sip-rơ. 5Tữ alới toâq pỡ cỗn Sip-rơ, alới sễng tễ tuoc bân vil Sa-lamít. Chơ alới mut tâng dống sang cũai I-sarel tâng vil ki, yoc atỡng parnai o tễ Yiang Sursĩ. Dếh Yang Mac hỡ pỡq cớp alới dŏq chuai alới. 6Vớt ki alới pỡq tadáh chũop nheq cỗn Sip-rơ toau alới toâq pỡ vil Baphô. Tâng vil Baphô alới ramóh manoaq cũai I-sarel ramứh Bayê-su. Án la cũai mo, cớp án la cũai táq nan tang bỗq Yiang Sursĩ. Bayê-su nâi, noau dŏq án Ê-luma hỡ. 7Ê-luma ỡt chuai ranáq yỗn cũai sốt tâng cỗn Sip-rơ, ramứh Sê-yut Phalut. Sê-yut Phalut la cũai rangoaiq lứq, cớp án arô Ba-naba cớp Salơ yoc ễ tamứng parnai Yiang Sursĩ. 8Ma Ê-luma catáng tỡ ễq Sê-yut Phalut tamứng cớp sa‑âm parnai ki. 9Chơ Salơ, noau dŏq ramứh Phau-lô hỡ, án nhêng cloân níc chu Ê-luma. Cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm án. 10Án pai chóq Ê-luma neq: “Mới la cũai dốq ễ cakéq, cớp yoc lứq raphếq rathũ. Mới la con yiang Satan. Mới yoc ễ pupứt ngê tanoang o. Nŏ́q mới tỡ ễq cũai puai ngê tanoang o tễ Yiang Sursĩ? 11Sanua Yiang Sursĩ táq yỗn mới cỡt sũt. Tỡ dáng maléq dũn nŏ́q têq mới hữm loah.”
 Bo ki toâp Ê-luma cỡt sũt. Chơ án chuchơr chuaq cũai ễq noau tếc án.
12Tữ cũai sốt cruang ki hữm ranáq ki, án sâng dớt lứq, cớp án sa‑âm Yê-su Crĩt tê.

Phau-lô Cớp Ba-naba Tâng Vil Anti-ôt Cruang Bi-sadi

13Vớt ki Phau-lô cớp yớu án chỗn tâng tuoc loŏh tễ vil Baphô pỡq chu vil Pêr-ca tâng cruang Bam-phuli. Ỡt tâng vil ki Yang Mac tỡ bữn pỡq noâng cớp alới, ma án chu loah pỡ vil Yaru-salem. 14Chơ Ba-naba cớp Phau-lô loŏh tễ vil Pêr-ca pỡq chu vil Anti-ôt tâng cruang Bi-sadi. Tâng Tangái Rlu alới bar náq mut rôm tâng dống sang tỗp I-sarel tâng vil ki. 15Moâm noau doc tễ phễp rit Môi-se khoiq atỡng tễ mbŏ́q yỗn tỗp I-sarel, cớp doc tễ tâm saráq cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q, alới ca ndỡm dống sang ki pai chóq Ba-naba cớp Phau-lô neq: “Sễm ai ơi! Khân anhia bữn santoiq catoaih atỡng yỗn hếq cỡt rêng achỗn, sễq anhia atỡng yỗn tỗp hếq dáng tê.”
16Ngkíq Phau-lô yuor tayứng cớp avứt atĩ tỡ yỗn alới tabỗq. Chơ án atỡng alới neq: “Nheq tữh sễm ai cũai I-sarel ơi! Cớp nheq náq anhia ca yám noap Yiang Sursĩ tê, sễq anhia tamứng santoiq cứq. 17Yiang Sursĩ nheq tữh cũai I-sarel sang, án toâp khoiq rưoh achúc achiac hái tễ mbŏ́q. Bo alới ỡt tâng cruang Ê-yip-tô, Yiang Sursĩ yỗn alới cỡt rứh clứng lứq. Toâq Yiang Sursĩ yỗn tỗp hái loŏh tễ cruang Ê-yip-tô, ki dũ náq cũai dáng án bữn chớc sốt toâr lứq. 18Tỗp I-sarel ỡt tâng ntốq aiq nheq pỗn chít cumo. Dốq alới tỡ trĩh parnai Yiang Sursĩ, ma noâng Yiang Sursĩ ayooq alới. 19Cớp tâng cruang Cana-an, Yiang Sursĩ pupứt chíq tapul cruang cũai, chơ yỗn tỗp hái ễn bữn ndỡm nheq cutễq tâng cruang ki. 20Ranáq ki cỡt tâng sám pỗn culám sỡng chít cumo. Vớt ki Yiang Sursĩ rưoh cũai dŏq rasữq tỗp I-sarel, toau toâq dỡi Samu-ễl, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ.
21“Moâm ki tỗp I-sarel sễq Yiang Sursĩ yỗn alới bữn puo. Ngkíq Yiang Sursĩ yỗn Salơ cỡt puo alới. Salơ la con samiang Ki-sơ tễ tỗp Ben-yamin, cớp án cỡt puo nheq pỗn chít cumo. 22Vớt ki Yiang Sursĩ táh Salơ, cớp án chóh Davĩt ễn yỗn cỡt puo. Yiang Sursĩ pai tễ Davĩt neq:
  ‘Davĩt, con samiang Yê-sai, bữn muoi mứt cớp cứq.
Ntrớu cứq yoc án táq, án lứq táq aki.’
23“Yiang Sursĩ khoiq par‑ữq tễ nhũang, án lứq yỗn manoaq tễ tŏ́ng toiq Davĩt toâq chuai amoong cũai I-sarel. Manoaq nâi la Yê-su. 24Bo Yê-su tỡ yũah toâq, Yang khoiq atỡng yỗn máh cũai I-sarel cóq roap batễm, táq tếc alới khoiq ngin lôih lêq cỡt mứt tamái ễn. 25Toâq Yang táq máh ranáq Yiang Sursĩ ớn án khoiq cheq ễ moâm chơ, án pai neq: ‘Cứq la tỡ cỡn án ca anhia ngcuang. Ma ntun nâi, án ca anhia ngcuang lứq toâq. Cứq la tỡ bữn pĩeiq dếh leh cansái cỡp tễ ayững án, yuaq cứq bữn chớc cớt-cớt lứq.’
26“Sễm ai ơi! Hái ca tễ tŏ́ng toiq A-praham, cớp máh anhia ca yám noap Yiang Sursĩ, Yiang Sursĩ lứq yỗn hái bữn parnai án, dŏq hái noap án têq chuai amoong cũai. 27Cũai proai tâng vil Yaru-salem cớp máh cũai sốt alới hỡ, alới tỡ bữn dáng Yê-su la Con Yiang Sursĩ. Cu Tangái Rlu tâng dống sang, alới doc tễ tâm saráq cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q, mŏ alới tỡ bữn dáng ntrớu tễ máh ŏ́c tâng tâm saráq ki. Ma toâq alới cachĩt Yê-su, alới táq yỗn cỡt rapĩeiq samoât cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq atỡng. 28Máh cũai tâng vil Yaru-salem chuaq ralíh ễ cachĩt Yê-su, ma alới tỡ ramóh muoi ŏ́c ntrớu têq cachĩt án. Ma noâng alới sễq tễ Phi-lat yỗn án cachĩt Yê-su. 29Toâq alới khoiq táq moâm nheq samoât cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q tễ Yê-su, chơ alới alíh asễng Yê-su tễ aluang sangcáng, cớp dững tứp án tâng ping. 30Ma Yiang Sursĩ yỗn Yê-su tamoong loah tễ cuchĩt. 31Chơ án ỡt clữi muoi casâi cớp alới ca khoiq puai án tễ cruang Cali-lê chu vil Yaru-salem. Sanua, tỗp nâi pỡq atỡng cũai I-sarel ca tỡ yũah dáng tễ ranáq Yê-su táq. 32-33Ngkíq hếq toâq atỡng parnai o nâi yỗn anhia dáng tê, la parnai Yiang Sursĩ khoiq par‑ữq cớp achúc achiac hái tễ mbŏ́q. Toâq Yiang Sursĩ yỗn Yê-su tamoong loah, án táq rapĩeiq máh ŏ́c án khoiq ữq cớp achúc achiac hái. Yiang Sursĩ khoiq atỡng máh ŏ́c nâi tâng pún bar tâm saráq Ũat Khễn. Yiang Sursĩ pai tễ Yê-su neq:
  ‘Mới la Con cứq.
   Tangái nâi cứq lứq cỡt Mpoaq mới.’
34“Cớp muoi ntốq canŏ́h ễn tâng tâm saráq Yiang Sursĩ, án pai tễ Yê-su neq:
  ‘Cứq lứq yỗn mới bữn máh ŏ́c bốn cứq khoiq ữq cớp Davĩt tễ mbŏ́q chơ.’
35“Cớp bữn ntốq canŏ́h ễn tâng tâm saráq Ũat Khễn, Davĩt pai neq:
‘Anhia tỡ yỗn án ca bráh o lứq cỡt abuoiq.’
36“Bo Davĩt noâng tamoong án táq máh ranáq Yiang Sursĩ ớn án táq. Ma toâq án cuchĩt, noau tứp án tâng ping achúc achiac án tê. Tỗ án cỡt abuoiq. 37Ma Yê-su, Yiang Sursĩ yỗn án tamoong loah, cớp tỗ án tỡ bữn abuoiq ntrớu. 38-39Ngkíq, sễm ai ơi, cứq yoc anhia dáng samoât lứq, ống manoaq Yê-su toâp têq táh lôih anhia. Máh phễp rit Môi-se yỗn anhia, tỡ têq yỗn anhia cỡt tanoang o yáng moat Yiang Sursĩ. Ma cũai aléq sa‑âm Yê-su, cũai ki lứq cỡt tanoang o yáng moat Yiang Sursĩ. 40Ngkíq anhia nhêng o, dŏq anhia têq viaq tễ ramứh túh coat cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq pai tễ mbŏ́q neq:
  41‘Máh anhia ca ayê ra‑ac parnai Yiang Sursĩ,
   cóq anhia tamứng yỗn samoât.
  Cóq anhia sâng croŏq lứq,
   cớp cóq anhia cuchĩt chíq,
  yuaq cứq ễ táq ranáq tâng dỡi anhia ca anhia tỡ bữn noap,
tam noau atỡng anhia chơ tễ ŏ́c ki.’”
42Tữ Phau-lô cớp Ba-naba loŏh tễ dống sang ki, bữn cũai sễq alới atỡng loah santoiq ki toâq Tangái Rlu ntun ễn. 43Moâm alới rôm, alới miar chu. Ma bữn sa‑ữi náq tễ tỗp I-sarel cớp tễ tỗp canŏ́h ca puai phễp rit I-sarel, alới puai Phau-lô cớp Ba-naba. Ngkíq Phau-lô cớp Ba-naba táq ntỡng cớp alới, cớp patâp alới chỗi táh máh ŏ́c Yiang Sursĩ khoiq chuai miat alới.
44Toâq Tangái Rlu ntun ễn, mán nheq tữh cũai tễ vil ki pỡq rôm yoc ễ tamứng parnai Yiang Sursĩ. 45Tữ cũai I-sarel hữm clứng lứq cũai rôm, alới sâng ũan, yuaq alới tỡ ễq cũai tamứng parnai Phau-lô. Chơ alới acrieiq Phau-lô. 46Ma Phau-lô cớp Ba-naba atỡng clŏ́q lứq ễn neq: “Cóq hếq atỡng yỗn anhia cũai I-sarel tamứng parnai Yiang Sursĩ nhũang tễ cũai canŏ́h. Ma anhia tỡ ễq tamứng parnai nâi, samoât riang anhia tỡ ễq tamoong mantái. Ngkíq sanua hếq pỡq atỡng cũai tỡ cỡn cũai I-sarel ễn. 47Yiang Sursĩ toâp ớn hếq táq ngkíq, cớp án pai neq:
  ‘Cứq chóh anhia yỗn cỡt samoât ŏ́c poang yỗn cũai tỡ cỡn cũai I-sarel,
dŏq nheq tữh cũai pưn paloŏng cutrúq nâi bữn dáng cứq yoc ễ chuai amoong alới.’”
48Tữ cũai tỡ cỡn cũai I-sarel sâng parnai ki, alới sâng bũi hỡr lứq, cớp alới khễn parnai Yiang Sursĩ. Máh cũai ca Yiang Sursĩ arô yỗn tamoong mantái, lứq alới sa‑âm parnai ki.
49Ngkíq parnai Yiang Sursĩ cỡt parhan la‑ữt la‑ữi chũop máh cruang ki. 50Ma cũai I-sarel, pỡq sasrúc chóq máh cũai sốt tâng vil ki cớp chóq máh cũai ayoaq ca sang toam Yiang Sursĩ. Cũai ayoaq ki, aléq la yám noap lứq alới. Ngkíq máh cũai I-sarel tuih Phau-lô cớp Ba-naba yỗn loŏh chíq tễ cruang cutễq alới. 51Ma Phau-lô cớp Ba-naba trutrếh phốn tễ ayững, táq tếc cũai tâng vil ki tỡ ễq tamứng alới. Chơ alới pỡq chu vil I-cuni ễn. 52Ma máh cũai khoiq sa‑âm tâng vil Anti-ôt, alới sâng bũi lứq, cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm alới.