13

II.- Tin lành được giảng ra giữa dân ngoại

(Từ đoạn 13 đến đoạn 28)

Phao-lô và Ba-na-ba được sai đi giảng đạo cho người ngoại

1 Trong Hội thánh tại thành An-ti-ốt có mấy người tiên tri và mấy thầy giáo sư, tức là: Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út người Sy-ren, Ma-na-hem là người đồng dưỡng với vua chư hầu Hê-rốt, cùng Sau-lơ. 2 Đương khi môn đồ thờ phượng Chúa và kiêng ăn, thì Đức Thánh Linh phán rằng: Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ đặng làm công việc ta đã gọi làm. 3 Đã kiêng ăn và cầu nguyện xong, môn đồ bèn đặt tay trên hai người, rồi để cho đi.

Phao-lô và Ba-na-ba tại đảo Chíp-rơ. – Sê-giút Phau-lút trở lại đạo

4 Vậy, Sau-lơ và Ba-na-ba đã chịu Đức Thánh Linh sai đi, bèn xuống thành Sê-lơ-xi, rồi từ đó đi thuyền đến đảo Chíp-rơ. 5 Đến thành Sa-la-min, hai người giảng đạo Đức Chúa Trời trong các nhà hội của người Giu-đa; cũng có Giăng cùng đi để giúp cho. 6 Trải qua cả đảo cho đến thành Ba-phô rồi, gặp một người Giu-đa kia, là tay thuật sĩ và tiên tri giả, tên là Ba-Giê-su, 7 vốn ở với quan trấn thủ tên là Sê-giút Phau-lút là người khôn ngoan. Người nầy đã sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến, và xin nghe đạo Đức Chúa Trời. 8 Nhưng Ê-ly-ma, tức là thuật sĩ (ấy là ý nghĩa tên người), ngăn hai người đó, ráng sức tìm phương làm cho quan trấn thủ không tin. 9 Bấy giờ, Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, đầy dẫy Đức Thánh Linh, đối mặt nhìn người, nói rằng: 10 Hỡi người đầy mọi thứ gian trá và hung ác, con của ma quỉ, thù nghịch cùng cả sự công bình, ngươi cứ làm hư đường thẳng của Chúa không thôi sao? 11 Nầy, bây giờ tay Chúa giá trên ngươi; ngươi sẽ bị mù, không thấy mặt trời trong ít lâu. Chính lúc đó, có sự mù mịt tối tăm phủ trên người, người xây quanh bốn phía, tìm kẻ để dắt mình. 12 Quan trấn thủ thấy sự đã xảy đến, bèn tin, lấy làm lạ về đạo Chúa.

Lời giảng của Phao-lô tại thành An-ti-ốt xứ Bi-si-đi

13 Phao-lô với đồng bạn mình xuống thuyền tại Ba-phô, sang thành Bẹt-giê trong xứ Bam-phi-ly. Nhưng Giăng lìa hai người, trở về thành Giê-ru-sa-lem. 14 Về phần hai người, thì lìa thành Bẹt-giê, cứ đi đường đến thành An-ti-ốt xứ Bi-si-đi; rồi nhằm ngày Sa-bát, vào trong nhà hội mà ngồi. 15 Vừa đọc sách luật và sách các tiên tri xong, các chủ nhà hội sai sứ nói cùng hai người rằng: Hỡi anh em, nếu có mấy lời khuyên bảo dân chúng, hãy giảng đi.
16 Phao-lô bèn đứng dậy, lấy tay làm hiệu, rồi nói rằng: Hỡi người Y-sơ-ra-ên và các người kính sợ Đức Chúa Trời, hãy nghe: 17 Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên nầy đã chọn tổ phụ chúng ta; làm cho dân ấy thạnh vượng lúc ở ngụ nơi ngoại quốc, tức là trong xứ Ê-díp-tô, và Ngài dùng cánh tay cao dẫn họ ra khỏi xứ đó. 18 Ước chừng bốn mươi năm, Ngài chịu tánh nết họ trong nơi đồng vắng. 19 Lại khi đã phá bảy dân trong xứ Ca-na-an, Ngài khiến họ nhận lấy đất của các dân đó, 20 Độ trong bốn trăm năm mươi năm; kế đó Ngài lập cho họ các quan đoán xét cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. 21 Bấy giờ, dân đó xin một vị vua, nên Đức Chúa Trời ban Sau-lơ, con của Ki-sơ, về chi phái Bên-gia-min, trị họ trong bốn mươi năm; 22 đoạn, Ngài bỏ vua đó, lại lập Đa-vít làm vua, mà làm chứng về người rằng: Ta đã tìm thấy Đa-vít con của Gie-sê, là người vừa lòng ta, người sẽ tuân theo mọi ý chỉ ta. 23 Theo lời hứa, Đức Chúa Trời bèn bởi dòng dõi người mà dấy lên cho dân Y-sơ-ra-ên một Cứu Chúa, tức là Đức Chúa Jêsus. 24 Trước khi Đức Chúa Jêsus chưa đến, Giăng đã giảng dạy phép báp-têm về sự ăn năn cho cả dân Y-sơ-ra-ên. 25 Giăng đang lo làm trọn công việc mình, thì nói rằng: Ta chẳng phải là Đấng mà các ngươi tưởng; nhưng có Đấng đến sau ta, ta chẳng xứng đáng mở dây giày Ngài.
26 Hỡi anh em, là con cháu dòng Áp-ra-ham, và kẻ kính sợ Đức Chúa Trời, lời rao truyền sự cứu chuộc nầy đã phán cho chúng ta vậy. 27 Vì dân và các quan ở thành Giê-ru-sa-lem chẳng nhìn biết Đức Chúa Jêsus nầy, nên lúc xử tội Ngài, chúng đã ứng nghiệm lời của các đấng tiên tri mà người ta thường đọc trong mỗi ngày Sa-bát. 28 Dầu trong Ngài chẳng tìm thấy cớ gì đáng chết, họ cứ xin Phi-lát giết Ngài đi. 29 Họ đã làm cho ứng nghiệm mọi điều chép về Ngài rồi, thì hạ Ngài xuống khỏi thập tự giá mà chôn trong mả. 30 Song Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài từ kẻ chết sống lại. 31 Những kẻ theo Ngài từ xứ Ga-li-lê lên thành Giê-ru-sa-lem đã được thấy Ngài lâu ngày, và hiện nay đều làm chứng về Ngài giữa dân chúng. 32 Còn chúng tôi, thì rao truyền cho các anh em tin lành nầy về lời hứa ban cho tổ phụ chúng ta, 33 rằng Đức Chúa Trời bởi khiến Đức Chúa Jêsus sống lại thì đã làm ứng nghiệm lời hứa đó cho chúng ta là con cháu của tổ phụ, y như đã chép trong sách Thi thiên đoạn thứ hai rằng: Con là Con trai ta, ngày nay ta đã sanh Con. 34 Ngài đã làm cho Đức Chúa Jêsus sống lại, đặng nay khỏi trở về sự hư nát nữa, ấy về điều đó mà Ngài đã phán rằng: Ta sẽ thành tín giữ cùng các ngươi lời hứa thánh đã phán với Đa-vít. 35 Lại trong câu khác, cũng có phán rằng: Chúa chẳng cho Đấng Thánh Ngài thấy sự hư nát đâu. 36 Vả, vua Đa-vít lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời, đoạn qua đời; người đã được trở về cùng các tổ phụ mình, và đã thấy sự hư nát; 37 nhưng Đấng mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại, chẳng có thấy sự hư nát đâu. 38 Vậy, hỡi anh em, khá biết rằng nhờ Đấng đó mà sự tha tội được rao truyền cho anh em; 39 lại nhờ Ngài mà hễ ai tin thì được xưng công bình về mọi điều theo luật pháp Môi-se chẳng có thể được xưng công bình. 40 Nên, hãy giữ lấy cho khỏi mắc điều đã chép trong sách tiên tri rằng:
41 Hỡi kẻ hay khinh dể kia, khá xem xét, sợ hãi và biến mất đi;
 Vì trong đời các ngươi, ta sẽ làm một việc,
 Nếu có ai thuật lại cho, các ngươi cũng chẳng tin.
42 Khi hai người bước ra, chúng xin đến ngày Sa-bát sau cũng giảng luận các lời đó. 43 Lúc hội đã tan, có nhiều người Giu-đa và người mới theo đạo Giu-đa, đi theo Phao-lô và Ba-na-ba, hai người nói chuyện với họ và khuyên cứ vững lòng theo ơn Đức Chúa Trời.
44 Ngày Sa-bát sau, gần hết cả thành đều nhóm lại để nghe đạo Chúa. 45 Song những người Giu-đa thấy đoàn dân đó thì đầy lòng ghen ghét, nghịch cùng lời Phao-lô nói và mắng nhiếc người. 46 Phao-lô và Ba-na-ba bèn nói cùng họ cách dạn dĩ rằng: Ấy cần phải truyền đạo Đức Chúa Trời trước nhứt cho các ngươi; nhưng vì các ngươi đã từ chối, và tự xét mình không xứng đáng nhận sự sống đời đời, nên đây nầy, chúng ta mới xây qua người ngoại. 47 Vì Chúa có phán dặn chúng ta như vầy:
 Ta lập ngươi lên đặng làm sự sáng cho các dân,
 Hầu cho ngươi đem sự cứu rỗi cho đến cùng cõi đất.
48 Những người ngoại nghe lời đó thì vui mừng, ngợi khen đạo Chúa, và phàm những kẻ đã được định sẵn cho sự sống đời đời, đều tin theo.
49 Đạo Chúa tràn ra khắp trong xứ đó. 50 Nhưng các người Giu-đa xui giục những đàn bà sang trọng sốt sắng và dân đàn anh trong thành; gây sự bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, mà đuổi ra khỏi phần đất mình. 51 Hai người đối cùng họ phủi bụi nơi chân mình, rồi đi đến thành Y-cô-ni. 52 Còn các môn đồ thì được đầy dẫy sự vui vẻ và Đức Thánh Linh vậy.

13

Sang Ơi Adai Pơkiaŏ Nao Barnabas Hăng Saul Kơ Bruă Tơlơi Pơthâo Hiam

1Amăng Sang Ơi Adai plei Antiok hơmâo ƀing pô pơala laih anŭn ƀing nai pơtô, jing ƀing: Barnabas, Simeôn ăt jing Niger mơ̆n, Lukios mơ̆ng plei Kurênê, Manahen jing pô arăng čem rong hrŏm hăng pô khua kwar Hêrôd Antipas, laih anŭn hơnăl tuč jing Saul yơh. 2Tơdang ƀing gơñu dŏ kơkuh pơpŭ kơ Khua Yang hăng iâu laĭ kŏm ƀơ̆ng huă, Yang Bơngăt Hiam pơhiăp hăng ƀing gơñu tui anai, “Pioh lui hơjăn bĕ kơ Kâo Barnabas hăng Saul kơ bruă Kâo hơmâo iâu laih ƀing gơñu kiăng kơ ngă.” 3Tui anŭn, tơdơi kơ ƀing gơñu hơmâo kŏm ƀơ̆ng huă hăng iâu laĭ laih, ƀing gơñu ăh tơngan gơñu ƀơi ƀing gơ̆ kiăng kơ jao bruă kơ ƀing gơñu laih anŭn pơkiaŏ nao ƀing gơ̆ yơh.

Amăng Plao Ia Kupros

4Tui anŭn, Barnabas hăng Paul tŭ Yang Bơngăt Hiam pơkiaŏ nao. Ƀing gơñu nao pơ plei Seleukeia laih anŭn mơ̆ng anŭn ƀing gơñu đĭ sŏng nao truh pơ plao ia Kupros. 5Tơdang ƀing gơñu nao truh pơ plei Salamis, ƀing gơñu pơtô pơhaih boh hiăp Ơi Adai amăng sang pơjơnum ƀing Yehudah. Ƀing gơñu ăt hơmâo Yôhan Markôs dŏ hrŏm hăng ƀing gơñu mơ̆n kiăng kơ djru bruă gơñu.
6Ƀing gơñu hyu djŏp amăng plao ia anŭn tơl ƀing gơñu nao truh pơ plei Paphos. Ƀing gơñu bưp sa čô Yehudah jing pô ngă pơjâo laih anŭn ăt jing pô pơala ƀlŏr mơ̆n anăn ñu jing Bar-Yêsu. 7Ñu jing gơyut gơyâo hăng pô khua kwar plao ia anŭn, anăn ñu jing Sergios-Paulos. Pô khua anŭn jing sa čô mơnuih rơgơi. Ñu brơi arăng iâu rai Barnabas hăng Saul yuakơ ñu kiăng kơ hơmư̆ boh hiăp Ơi Adai. 8Samơ̆ pô pơjâo arăng iâu Elumas amăng tơlơi pơhiăp Grek, pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu hăng gir pơgăn hĭ pô khua anŭn mơ̆ng tơlơi đaŏ kơnang kơ Yang Yêsu. 9Giŏng anŭn, Saul, ăt jing Paul mơ̆n, tŭ git gai hlo̱m ƀo̱m yua mơ̆ng Yang Bơngăt Hiam, lăng pơñen tơpă pơ pô pơjâo anăn Elumas anŭn hăng laĭ tui anai, 10“Ih jing kar hăng sa čô ană yang sat laih anŭn jing pô pơkơdơ̆ng glaĭ hăng abih bang tơlơi jing tơpă hơnơ̆ng! Ih tŭ pơpleč pơƀlŏr hlo̱m ƀo̱m laih anŭn sat ƀai. Ih tŏ tui gir kiăng kơ pơplih hĭ hơget tơlơi jing sĭt kơ tơlơi Khua Yang nao pơ hơget tơlơi ƀu jing sĭt ôh! 11Ră anai Khua Yang či pơkơhma̱l hĭ ih yơh. Ih či jing hĭ pô bum mơta laih anŭn ƀu thâo ƀuh yang hrơi ôh amăng ƀiă hrơi.”
 Ƀơi mông anŭn mơtam, ñu jing hĭ bum mơta hlo̱m ƀo̱m laih anŭn ñu rơwư hyu hơduah sem mơnuih kiăng kơ djă̱ tơngan dui ba ñu.
12Tơdang pô khua anŭn ƀuh hơget tơlơi hơmâo truh laih, ñu đaŏ kơnang kơ Yang Yêsu mơtam yơh, yuakơ ñu hli̱ng hla̱ng biă mă kơ tơlơi pơtô pơblang kơ tơlơi Khua Yang.

Paul Pơtô Pơ Plei Prŏng Antiok Laih Anŭn Amăng Tring Pisidia

13Mơ̆ng plei Paphos, Paul hăng ƀing gơyut ñu đĭ sŏng nao pơ plei Perga amăng kwar Pamphulia, jing ƀơi anih anŭn yơh Yôhan Markôs đuaĭ lui hĭ ƀing gơñu kiăng kơ wơ̆t glaĭ pơ plei phŭn Yerusalaim. 14Mơ̆ng plei Perga ƀing gơñu nao pơ plei Antiok amăng tring Pisidia laih anŭn ƀơi hrơi Saƀat ƀing gơñu nao pơ sang jơnum pơ anŭn hăng dŏ be̱r. 15Tơdơi kơ đŏk giŏng laih Hră Tơlơi Juăt Môseh laih anŭn Hră ƀing Pô Pơala, ƀing khua wai lăng sang jơnum mơit rai asăp pơhiăp kơ ƀing gơñu tui anai, “Ơ ƀing ayŏng adơi ăh, tơdah ƀing gih hơmâo boh hiăp pơtrŭt pơđu̱r kơ ƀing ană plei, rơkâo kơ ƀing gih pơhiăp bĕ.”
16Tui anŭn, Paul tơgŭ, ngă gru hăng tơngan ñu laih anŭn pơhiăp tui anai, “Ơ ƀing Israel laih anŭn ƀing gih jing ƀing Tuai kơkuh pơpŭ kơ Ơi Adai hơi, rơkâo kơ ƀing gih hơmư̆ kâo bĕ! 17Ơi Adai, Pô ƀing Israel kơkuh pơpŭ, hơmâo ruah mă laih ƀing ơi adon ta. Ñu brơi kơ ƀing ană plei đĭ kơyar tơdang ƀing gơ̆ dŏ hơdip amăng lŏn čar Êjip laih anŭn Ñu dưi mơyang dui ba ƀing gơ̆ tơbiă mơ̆ng lŏn čar anŭn. 18Ñu gir ư̆ añ hăng tơlơi bruă ƀing gơñu ngă amăng tơdron ha̱r amăng pă̱pluh thŭn. 19Ñu ăt pơrai hĭ tơjuh lŏn čar amăng lŏn čar Kanaan laih anŭn pha brơi anih lŏn anŭn kơ ƀing ană plei Ñu jing hĭ lŏn kŏng ngăn kơ gơñu pô. 20Abih bang tơlơi truh anŭn hơmâo truh laih amăng kơplăh wăh pă̱-rơtuh rơmapluh thŭn.”
 “Tơdơi kơ anŭn, Ơi Adai pha brơi kơ ƀing gơñu ƀing khua phat kơđi hlŏng truh pơ rơnŭk pô pơala Samuêl yơh.
21Giŏng anŭn, ƀing gơñu tơña hơduah kiăng kơ hơmâo pơtao laih anŭn Ơi Adai pha brơi kơ ƀing gơñu pơtao Saul, ană rơkơi Kis, jing mơ̆ng kơnung djuai Benyamin, jing pô git gai wai lăng ƀing gơñu amăng pă̱pluh thŭn. 22Tơdơi kơ Ñu mă pơđuaĭ hĭ laih pơtao Saul, Ñu pơjing Dawid jing hĭ pơtao gơñu. Ñu pơhaih kơ tơlơi Dawid tui anai, ‘Kâo hơmâo ep lăng laih Dawid, ană đah rơkơi Yisai, jing pô pơmơak kơ pran jua Kâo. Ñu či ngă abih bang tơlơi Kâo kiăng kơ ñu ngă yơh.’
23“Mơ̆ng ƀing ană tơčô ñu anŭn yơh Ơi Adai hơmâo ba rai kơ ƀing Israel Pô Pơklaih Yang Yêsu, jing tui hăng tơlơi Ñu ƀuăn laih yơh. 24Hlâo kơ Yang Yêsu čơdơ̆ng ngă bruă Ñu, Yôhan hơmâo pơtô pơblang laih kơ abih bang ƀing Israel kơ tơlơi ƀing gơñu năng kơhma̱l laih anŭn ñu či ngă baptem brơi kơ ƀing gơñu. 25Tơdang Yôhan hlak ngă pơgiŏng hĭ bruă ñu, ñu laĭ tui anai, ‘Hlơi ƀing gih pơmĭn kơ kâo jing lĕ? Kâo ƀu djơ̆ jing Pô ƀing gih hlak dŏ čang rơmang anŭn ôh. Samơ̆ Pô rai tơdơi kơ kâo, kâo ƀu lăp ôh tơleh brơi hrĕ klĭ juă Ñu, jing kar hăng sa čô ding kơna či ngă.’
26“Ơ ƀing ayŏng adơi hơi, jing ană tơčô Abraham, laih anŭn ƀing gih jing ƀing huĭ pơpŭ kơ Ơi Adai, kơ ƀing ta yơh Ơi Adai brơi rai boh hiăp pơtô pơblang kơ tơlơi hiư̆m Ñu pơklaih hĭ ƀing ta. 27Ƀing ană plei wơ̆t hăng ƀing khua gơñu amăng plei Yerusalaim ƀu thâo krăn Yang Yêsu ôh, samơ̆ tơdang ƀing gơñu klă̱ kơđi kơ Yang Yêsu anŭn, ƀing gơñu hơmâo pơkrĕp truh hĭ laih hơdôm boh hiăp ƀing pô pơala arăng juăt pơđŏk laih rĭm hrơi Saƀat anŭn. 28Wơ̆t tơdah ƀing gơñu ƀu thâo hơduah ƀuh sa tơhơnal tơlơi hơget ôh kiăng kơ pơdjai hĭ Gơ̆, samơ̆ ƀing gơñu rơkâo kơ Pilat pơdjai hĭ Gơ̆. 29Tơdang ƀing gơñu hơmâo ngă pơgiŏng hĭ laih hơdôm tơlơi ƀing pô pơala hơmâo čih pioh laih kơ tơlơi Ñu, ƀing mơnuih pơkŏn mă trŭn hĭ atâo Gơ̆ hăng dơ̱r lui hĭ Gơ̆ amăng pa̱r pơsat. 30Samơ̆ Ơi Adai hơmâo pơhơdip glaĭ laih Ñu tơdơi kơ Ñu hơmâo djai laih. 31Laih anŭn amăng lu hrơi Ñu pơƀuh rai kơ ƀing hlơi pô hơmâo đuaĭ hyu laih hăng Ñu hlâo adih mơ̆ng kwar Galilê nao pơ plei Yerusalaim. Ră anai ƀing mơnuih anŭn yơh jing ƀing ngă gơ̆ng jơlan brơi kơ Ñu kơ ƀing ană plei ta.
32“Ƀing gơmơi ră ruai kơ ƀing gih Tơlơi Pơthâo Hiam anai: Hơdôm tơlơi Ơi Adai hơmâo ƀuăn laih hăng ƀing ơi adon ta hlâo adih, 33Ñu hơmâo ngă pơgiŏng hĭ laih kơ ƀing ta, jing ƀing ană tơčô gơñu tơdang Ñu pơhơdip glaĭ Yang Yêsu mơ̆ng mơnuih djai. Kar hăng tơlơi arăng hơmâo čih laih amăng hră Tơlơi Adoh Bơni Hơơč tui anai,
  “ ‘Ih jing Ană Đah Rơkơi Kâo,
   hrơi anai Kâo hơmâo pơrơđah laih kơ tơlơi Kâo jing Ama Ih.’
34“Ơi Adai hơmâo pơhơdip glaĭ laih Ñu tơdơi kơ Ñu hơmâo djai hĭ laih laih anŭn ƀu brơi kơ drơi jan Ñu brŭ rai hĭ ôh. Pơmĭn ƀlơ̆ng kơ tơlơi anŭn Ơi Adai hơmâo pơhiăp laih tui anai,
  “ ‘Sĭt Kâo či bơni hiam kơ ƀing gih kar hăng Kâo ƀuăn laih kiăng bơni hiam kơ Dawid.’
35“Dawid ăt čih laih mơ̆n amăng hră pơkŏn dơ̆ng,
  “ ‘Ih, Ơ Ơi Adai ăh, ƀu či lui brơi kơ Pô Rơgoh Hiam Ih mưn tŭ tơlơi brŭ rai ôh.’
36“Tơdang Dawid hơmâo mă bruă tui tơlơi kơñăm Ơi Adai amăng rơnŭk ñu pô, ñu ăt tơĭ pran laih. Arăng dơ̱r ñu hăng ƀing ơi adon gơ̆ laih anŭn atâo gơ̆ jing hĭ brŭ rai yơh. 37Samơ̆ Pô Ơi Adai hơmâo pơhơdip glaĭ laih tơdơi kơ Ñu hơmâo djai hĭ laih, drơi jan Ñu ƀu jing hĭ brŭ rai ôh.
38“Hơnŭn yơh, Ơ ƀing ayŏng adơi kâo ăh, kâo kiăng kơ ƀing gih thâo krăn kơ tơlơi ƀing gơmơi hlak pơtô pơblang kơ ƀing gih kơ tơlơi yua mơ̆ng tơlơi anŭn yơh Yang Yêsu hơmâo ngă laih Ơi Adai dưi pap brơi kơ hơdôm tơlơi soh gih. 39Yua mơ̆ng tơlơi đaŏ kơnang kơ Yang Yêsu yơh, Ơi Adai yap rĭm čô tơpă hơnơ̆ng. Samơ̆ Ơi Adai ƀu dưi yap kơ hlơi pô jing tơpă hơnơ̆ng ôh yua mơ̆ng gir tui gưt Tơlơi Juăt Môseh. 40Tui anŭn, brơi kơ ƀing gih răng pô bĕ kơ tơlơi Ơi Adai ƀu phat kơđi ƀing gih kar hăng sa čô amăng ƀing pô pơala hơmâo pơhiăp laih Ñu či ngă kơ ƀing gih tui anai,
  41“ ‘Lăng bĕ, Ơ ƀing djik djak ăh,
   rŭng răng hăng răm rơngiă hĭ bĕ,
   yuakơ Kâo jĕ či ngă tơlơi bruă amăng rơnŭk gih
   tơl ƀing gih ƀu pơmĭn truh ôh tơdang ƀing gih hơmư̆ arăng ruai kơ tơlơi anŭn kơ ƀing gih.’ ”
42Tơdang Paul hăng Barnabas tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng sang jơnum, ƀing mơnuih pơ anŭn jak iâu ƀing gơñu kiăng kơ pơhiăp dơ̆ng kơ hơdôm mơta tơlơi anŭn amăng hrơi Saƀat pơanăp. 43Tơdang abih bang ƀing mơnuih giŏng laih jơnum, hơmâo lu ƀing Yehudah hăng ƀing Tuai, jing ƀing kơkuh pơpŭ kơ Ơi Adai kar hăng ƀing Yehudah, đuaĭ tui Paul hăng Barnabas. Abih dua gơñu pơhiăp pơruai hăng ƀing gơñu laih anŭn pơtrŭt ƀing gơñu kiăng kơ tŏ tui đaŏ kơnang kơ tơlơi Ơi Adai či khăp pap pap brơi hơdôm tơlơi soh gơñu yuakơ tơlơi Yang Yêsu ngă laih yơh.
44Ƀơi hrơi Saƀat tŏ tui, jĕ kơ abih bang mơnuih amăng plei pơjơnum glaĭ kiăng kơ hơmư̆ ƀing gơñu pơhiăp kơ tơlơi Khua Yang. 45Tơdang ƀing khua moa ƀing Yehudah ƀuh ƀing mơnuih lu anŭn, ƀing gơñu jing hĭ ƀlah moăñ biă mă laih anŭn pơhiăp djik djak pơkơdơ̆ng glaĭ hăng hơdôm tơlơi pơtô pơblang Paul kiăng pơmlâo hĭ gơ̆ yơh.
46Giŏng anŭn, Paul hăng Barnabas laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu hăng tơlơi khĭn tui anai, “Ƀing gơmơi khŏm pơtô boh hiăp Ơi Adai kơ ƀing gih hlâo. Yuakơ ƀing gih hơngah hĭ laih kơ boh hiăp anŭn laih anŭn ƀu pơmĭn ƀlơ̆ng ôh kơ gih pô lăp kơ tơlơi hơdip hlŏng lar hăng Ơi Adai, tui anŭn yơh ră anai ƀing gơmơi wir đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing gih hăng nao pơ ƀing Tuai yơh. 47Ƀing gơmơi ăt hlak ngă tui anŭn yuakơ Khua Yang pơđar laih kơ ƀing gơmơi tui anai,
  “ ‘Kâo hơmâo pơjing laih ih
   jing kar hăng tơlơi bơngač kơ ƀing mơnuih Tuai,
   kiăng ih dưi pơruai kơ ƀing mơnuih djŏp anih hiư̆m Kâo dưi pơklaih hĭ ƀing gơñu.’ ”
48Tơdang ƀing Tuai hơmư̆ tơlơi pơhiăp anŭn, ƀing gơñu hơ̆k mơak hăng pơpŭ pơyom kơ boh hiăp kơ tơlơi Khua Yang Yêsu, laih anŭn abih bang ƀing hlơi pô Ơi Adai hơmâo ruah mă laih kiăng kơ hơdip hlŏng lar hăng Ñu, ƀing gơñu đaŏ kơnang yơh.
49Lu ƀing đaŏ đuaĭ hyu djŏp anih amăng tring anŭn pơhaih boh hiăp kơ tơlơi Yang Yêsu yơh. 50Samơ̆ ƀing khua moa ƀing Yehudah pơsur ƀing đah kơmơi jing ƀing kơkuh pơpŭ kar hăng ƀing Yehudah. Ƀing gơñu pơtrŭt ƀing arăng kiăng kơ kơpĭ kơpe̱t hĭ Paul hăng Barnabas, laih anŭn puh pơđuaĭ hĭ dua ƀing gơ̆ mơ̆ng anih tring gơñu anŭn yơh. 51Tui anŭn, Paul hăng Barnabas tơtŭh hĭ ƀruih lŏn mơ̆ng tơkai gơñu kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ kơ ƀing ană plei anŭn kiăng pơrơđah kơ tơlơi Ơi Adai či pơkơhma̱l hĭ ƀing gơñu laih anŭn ƀing gơñu nao pơ plei Ikoniom yơh. 52Tơdang anŭn, ƀing ding kơna ƀơi plei Antiok hơ̆k mơak biă mă laih anŭn tŭ git gai hlo̱m ƀo̱m mơ̆ng Yang Bơngăt Hiam yơh.