48

Lời tiên tri về người Mô-áp

1 Về Mô-áp. Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Khốn cho Nê-bô, vì đã trở nên hoang vu! Ki-ri-a-ta-im mang xấu hổ, và bị bắt lấy; Mít-gáp bị xô đổ và nhuốc nhơ. 2 Sự ngợi khen của Mô-áp chẳng còn có nữa; tại Hết-bôn, người ta mưu hại nó mà rằng: Hãy đến, hủy diệt dân nầy, cho nó không được kể vào số các nước nữa! Hỡi Mát-mên, ngươi cũng sẽ trở nên im lặng; gươm sẽ đuổi theo ngươi. 3 Có tiếng kêu la khởi từ Hô-rô-na-im rằng: Sự hoang vu và hủy hoại lớn thay! 4 Mô-áp tan nát rồi. Những con trẻ nó kêu la vang tiếng! 5 Chúng nó sẽ lên dốc Lu-hít, khóc lóc chẳng thôi; xuống dốc Hô-rô-na-im, nghe tiếng hủy hoại thảm sầu. 6 Hãy trốn đi, cứu lấy sự sống mình, như cây thạch thảo nơi đồng vắng!
7 Vì ngươi đã trông cậy sự mình làm ra và của báu mình, ngươi cũng sẽ bị bắt lấy. Kê-mốt cùng các thầy tế lễ và các quan trưởng mình sẽ đi làm phu tù. 8 Kẻ hủy diệt sẽ vào trong mọi thành, chẳng có thành nào thoát khỏi; nơi trũng sẽ bị hủy hoại, đồng bằng bị phá tan, như Đức Giê-hô-va đã phán. 9 Hãy cho Mô-áp những cánh, đặng nó bay đi trốn; các thành nó sẽ nên hoang vu, chẳng còn ai ở. 10 Đáng rủa thay là kẻ làm việc Đức Giê-hô-va cách dối dá! Đáng rủa thay là kẻ từ chối máu nơi gươm mình!
11 Mô-áp từ lúc còn trẻ vốn yên lặng, như rượu đứng cặn, chưa từ bình nầy rót qua bình khác: Nó cũng chẳng đi làm phu tù; nên giữ được vị nguyên của mình, mùi thơm còn chưa đổi. 12 Vậy nên, Đức Giê-hô-va phán: Nầy, ngày đến, bấy giờ ta sẽ sai đến cùng nó những kẻ đổ ra, chúng nó sẽ đổ nó ra, làm trống bình nó đi, và đập các bình ra từng mảnh. 13 Mô-áp sẽ bị xấu hổ bởi Kê-mốt, cũng như nhà Y-sơ-ra-ên đã bị xấu hổ bởi Bê-tên mình trông cậy.
14 Làm sao các ngươi nói được rằng: Chúng ta là anh hùng, là người mạnh mẽ nơi chiến trận? 15 Mô-áp bị phá hoại, kẻ thù nghịch đi lên tiến vào các thành nó; kẻ giỏi nhứt trong bọn trai trẻ nó bị giết, Đức Vua, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán vậy. 16 Sự tai hại của Mô-áp gần đến; họa nó tới rất mau. 17 Hỡi các ngươi là kẻ ở chung quanh nó, hãy than khóc nó! Hết thảy các ngươi là kẻ biết danh nó, khá nói rằng: Cái gậy cứng mạnh, cái gậy đẹp đẽ nầy đã gãy đi là dường nào!
18 Hỡi con gái ở trong Đi-bôn! Hãy xuống khỏi ngôi vinh hiển mình, ngồi cách khô khát. Vì kẻ hủy diệt Mô-áp lên nghịch cùng ngươi, phá đồn lũy ngươi. 19 Hỡi dân cư A-rô-e! Hãy đứng bên đường và ngó. Hãy hỏi đàn ông đi trốn và đàn bà thoát nạn, rằng: Việc đã xảy ra làm sao?
20 Mô-áp bị xấu hổ, sức mạnh nó đã tan nát. Hãy than thở, cất tiếng kêu lên! Hãy rao trên bờ Ạt-nôn rằng Mô-áp bị phá hại. 21 Sự đoán phạt đã đổ xuống trên xứ đồng bằng, trên Hô-lôn, Gia-sa, Mê-phát, 22 Đi-bôn, Nê-bô, Bết-Đíp-la-tha-im, 23 Ki-ri-a-ta-im, Bết-Ga-mun, Bết-Mê-ôn, 24 Kê-ri-giốt, Bốt-ra, và trên hết thảy các thành xứ Mô-áp, nơi gần và xa.
25 Đức Giê-hô-va phán: Sừng của Mô-áp đã chặt rồi, cánh tay nó đã gãy. 26 Hãy làm cho nó say sưa, vì nó đã lên mình nghịch cùng Đức Giê-hô-va. Mô-áp sẽ đẵm mình trong sự mửa thổ, cũng làm cớ cho người ta chê cười.
27 Ngươi há chẳng từng chê cười Y-sơ-ra-ên sao? Vậy thì nó có bị bắt được trong vòng kẻ trộm chăng, mà hễ khi ngươi nói đến nó thì lắc đầu? 28 Hỡi dân cư Mô-áp, hãy lìa bỏ các thành, đi ở trong vầng đá; khá như chim bồ câu làm ổ trên miệng vực sâu.
29 Mô-áp kiêu ngạo vô chừng, sự xấc xược, sự cậy mình, sự khoe khoang của lòng kiêu căng nó, chúng ta đều nghe cả. 30 Đức Giê-hô-va phán: Ta biết sự giận của nó là hư không, sự khoe khoang của nó là vô ích. 31 Vậy nên ta khóc thương Mô-áp vì cả dân sự Mô-áp mà kêu la. Người ta than khóc cho dân Kiệt-Hê-re. 32 Hỡi cây nho Síp-ma, nhánh nhóc ngươi vượt qua biển, kịp tới biển Gia-ê-xe; kẻ hủy diệt đã đến cướp lấy trái mùa hạ và mùa nho ngươi, nên ta vì ngươi khóc lóc hơn là vì Gia-ê-xe khóc lóc. 33 Sự vui mừng hớn hở đã mất đi trong ruộng màu mỡ và đất Mô-áp; ta đã làm cho rượu cạn khô trong các bàn ép. Người ta chẳng reo vui mà đạp trái nho nữa: Sự reo vui của nó chẳng phải là reo vui. 34 Tiếng than khóc từ Hết-bôn nghe thấu Ê-lê-a-lê cho đến Gia-hát, từ Xoa cho đến Hô-rô-na-im và đến Ê-lát-Sê-li-sia. Vì các dòng nước ở Nim-rim cũng đều nên hoang vu. 35 Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ cất khỏi Mô-áp kẻ dâng tế lễ trên nơi cao, và kẻ đốt hương cho các thần mình.
36 Bởi vậy, lòng ta vì Mô-áp trổi tiếng như ống sáo; lòng ta trổi tiếng vì dân Kiệt-Hê-re như ống sáo; cho nên sự dư dật nó đã thâu góp thì mất hết rồi. 37 Đầu đều trọc hết, râu đều cắt hết; mọi tay đều bị dấu cắt, mọi lưng đều mang bao gai. 38 Trên các nóc nhà Mô-áp và trong các đường phố nó, rặt là những sự than khóc, vì ta đã đập bể Mô-áp như bình chẳng ai ưa thích, Đức Giê-hô-va phán vậy.
39 Kìa, nó đã đổ nát dường nào! Chúng nó than thở dường nào! Mô-áp xây lưng lại cách hổ thẹn dường nào! Mô-áp sẽ trở nên cớ nhạo cười và sợ hãi cho hết thảy người chung quanh. 40 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, quân nghịch liệng như chim ưng, sè cánh nghịch cùng Mô-áp. 41 Kê-ri-giốt bị lấy, các đồn lũy bị choán rồi; ngày đó, lòng những người mạnh mẽ của Mô-áp trở nên như lòng đàn bà đau đẻ. 42 Mô-áp sẽ bị diệt, không thành một dân nữa, vì nó đã lên mình nghịch cùng Đức Giê-hô-va. 43 Đức Giê-hô-va phán: Hỡi dân Mô-áp! Sự kinh hãi, hầm hố, bẫy dò đương lâm trên ngươi. 44 Kẻ nào trốn khỏi sự kinh hãi sẽ sa trong hầm hố, kẻ nào lên khỏi hầm hố sẽ mắc phải bẫy dò. Vì ta sẽ khiến năm thăm phạt đến trên Mô-áp, Đức Giê-hô-va phán vậy.
45 Kẻ trốn tránh kiệt sức rồi thì núp dưới bóng Hết-bôn; vì có lửa phát ra từ Hết-bôn, ngọn lửa từ giữa Si-hôn, thiêu nuốt góc Mô-áp, và sọ của con kẻ hỗn hào. 46 Hỡi Mô-áp, khốn nạn cho ngươi! Dân Kê-mốt mất rồi! Các con trai và con gái ngươi đã bị bắt đi làm phu tù. 47 Nhưng, đến những ngày sau rốt, ta sẽ đem các phu tù Mô-áp trở về, Đức Giê-hô-va phán vậy. Lời xét đoán về Mô-áp đến đó mà thôi.

48

Boh Hiăp Kơ Tơlơi Lŏn Čar Môab

1Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang, jing Ơi Adai ƀing Israel pơhiăp kơ tơlơi lŏn čar Môab:
  “Răm ƀăm yơh kơ plei Nebô, yuakơ plei anŭn či răm rai hĭ yơh.
   Plei Kiryathayim či tŭ pơmlâo yuakơ ƀing rŏh ayăt či blah mă hĭ.
   Kơđông kơjăp plei anŭn či tŭ pơmlâo yuakơ răm rai hĭ yơh.
  2Arăng ƀu či pơpŭ pơyom kơ lŏn čar Môab dơ̆ng tah.
   Amăng plei Hesbôn ƀing rŏh ayăt ngă mơneč laih kiăng kơ čar anŭn răm rai tui anai,
   ‘Rai bĕ, brơi kơ ƀing ta pơđŭt hĭ bĕ lŏn čar Môab anŭn.’
  Ơ ƀing plei Mơnuih Hưt ăh, ƀing gih či čŏk hia yơh,
   yuakơ ƀing rŏh ayăt či kơsung blah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gih yơh.
  3Hơmư̆ bĕ kơ tơlơi kwưh rơkâo mơ̆ng plei Hôrônayim tui anai,
   ‘Tơlơi truh sat! Tơlơi răm rai!’
  4Ƀing rŏh ayăt anŭn či pơrai hĭ lŏn čar Môab.
   Ƀing ană bă lŏn čar anŭn či čŏk hia yơh.
  5Ƀing ană plei či đĭ nao ƀơi jơlan nao pơ anih Luhit,
   čŏk hia ruă phĭ̱ biă mă tơdang ƀing gơñu nao.
  Ăt ƀơi jơlan trŭn nao pơ plei Hôrônayim mơ̆n
   ƀing gơñu či pơkrao kơ tơlơi djru yuakơ tơlơi răm rai anŭn yơh.
  6Ƀing gơñu laĭ tui anai, ‘Đuaĭ kơdŏp bĕ! Đuaĭ bĕ kiăng pơklaih hĭ gih pô.
   Ƀing ta khŏm dŏ kar hăng sa ƀĕ kơyâo pum drơi amăng tơdron ha̱r.’

  7“Ơ ƀing Môab, yuakơ ƀing gih đaŏ kơnang kơ tơlơi kơtang hăng tơlơi pơdrŏng săh gih pô,
   tui anŭn arăng či mă mơnă hĭ ƀing gih.
  Arăng ăt či ba nao yang Kemôs gih mơ̆ng lŏn čar ñu pơ anih ataih yơh,
   hrŏm hăng ƀing khua ngă yang ñu wơ̆t hăng ƀing khua moa ñu mơ̆n.
  8Ƀing pơrai anŭn či rai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng rĭm plei yơh,
   laih anŭn ƀu hơmâo plei pă ôh či tơklaih hĭ.
  Dơnung gih anŭn či glưh pơčah hĭ,
   anih tơhnă̱ gih ăt či răm rai hĭ mơ̆n,
   tui hăng Kâo, Yahweh, hơmâo pơhiăp laih.
  9Pioh bĕ hra ƀơi khul đang hơma lŏn čar Môab,
   kiăng kơ jing hĭ anih rơngol yơh.
  Khul plei pla Môab či jing hĭ rơngol,
   laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô dŏ hơdip amăng khul plei anŭn dơ̆ng tah.”

  10Tơlơi hơtŏm păh yơh dŏ ƀơi hlơi pô hơngah ƀu kiăng ngă ôh bruă Yahweh!
   Tơlơi hơtŏm păh yơh dŏ ƀơi hlơi pô ƀu ngă tuh drah mơnuih Môab ôh!

  11Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Ƀing Môab hơmâo hơdip laih rơnŭk hơđơ̆ng čơdơ̆ng mơ̆ng thŭn phrâo pơkô̆ pơjing rai lŏn čar gơñu,
   jing kar hăng ia tơpai boh kơƀâo arăng lui brơi kơ ia djă̱ ñu kơdram trŭn,
   laih anŭn kŏn tuh ia boh kơƀâo anŭn mơ̆ng čeh anai nao pơ čeh pơkŏn lơi kiăng kơ pơrơgoh.
  Arăng ƀu hơmâo mă ba ƀing Môab nao ataih pơ lŏn čar pơkŏn ôh.
   Tui anŭn, tơlơi jơma̱n ñu ƀu jing hĭ jơma̱n dơ̆ng tah,
   laih anŭn mơnâo ƀâo ñu kŏn pơplih jing hĭ hiam lơi.
  12Samơ̆ hrơi mông hlak truh yơh,
   tơdang Kâo či pơkiaŏ mơnuih mơnam jing ƀing tuh hĭ mơ̆ng khul čeh anŭn,
   laih anŭn ƀing gơñu či tuh tơbiă hĭ ƀing Môab yơh.
  Ƀing gơñu či pơhŏng hĭ khul čeh anŭn
   laih anŭn pơphač hĭ hlo̱m ƀo̱m yơh.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  13“Giŏng anŭn ƀing Môab či tŭ mlâo mlañ yua mơ̆ng tơlơi ƀing gơñu đaŏ kơnang kơ yang Kemôs yơh,
   jing kar hăng ană plei lŏn čar Israel tŭ mlâo mlañ hlâo adih yơh
   tơdang ƀing gơñu đaŏ kơnang kơ yang rơba̱ng Bêthêl.

  14“Ơ ƀing Môab hơi, yua hơget ƀing gih dưi laĭ tui anai, ‘Ƀing gơmơi jing ƀing tơhan khĭn kơtang,
   jing ƀing tơhan mưn tŭ amăng tơlơi pơblah laih lĕ’?
  15Lŏn čar Môab či răm rai hĭ laih anŭn khul plei pla ñu arăng či wang blah hĭ yơh.
   Ƀing hlak ai đah rơkơi hiam lŏn čar Môab či tŭ tơlơi arăng pơdjai yơh,”
   Pơtao, jing Pô hơmâo anăn Yahweh Dưi Kơtang, pơhiăp tui anai,
  16“Tơlơi tơnap tap prŏng ƀing Môab jĕ biă mă yơh.
   Sĭt tơlơi truh sat ñu či truh tañ biă mă yơh.
  17Ơ abih bang ƀing lŏn čar jum dar Môab,
   jing ƀing thâo krăn tơlơi hing ang lŏn čar anŭn,
   kơŭ kơuăn brơi kơ ƀing gơñu bĕ.
  Brơi kơ ƀing gih laĭ bĕ tui anai, ‘Tơlơi dưi kơtang Môab jing kar hăng gai hơnuăt pơtao hơmâo jŏh hĭ laih,
   laih anŭn tơlơi ang yang ñu jing kar hăng gai jra hơmâo răm hĭ laih!’

  18“Ơ ƀing ană plei plei pơnăng Dibôn hơi,
   trŭn bĕ mơ̆ng anih glông ang yang gih,
   pơluă gŭ bĕ gih pô hăng dŏ be̱r bĕ ƀơi tơnah thu krô,
  yuakơ pô pơrai hĭ Môab
   či đĭ rai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gih
   laih anŭn pơrăm hĭ khul kơđông kơjăp gih yơh.
  19Ơ ƀing ană plei plei Arôêr hơi,
   dŏ dơ̆ng bĕ ƀơi kơtuai jơlan laih anŭn dŏ tơguan bĕ,
  tơña bĕ kơ ƀing đah rơkơi kơdŭn đuaĭ laih anŭn ƀing đah kơmơi đuaĭ kơdŏp,
   tơña bĕ kơ ƀing gơñu tui anai, ‘Hơget tơlơi hơmâo truh laih lĕ?’
  20Ƀing gơñu či laĭ glaĭ tui anai, ‘Môab či tŭ mlâo mlañ yơh, yuakơ rŏh ayăt blah juă hĭ laih.
   Pơkrao bĕ laih anŭn ur kraih bĕ!
  Pơhaih tơbiă bĕ kơtuai krong Arnôn
   kơ tơlơi Môab tŭ răm rai laih.
  21Tơlơi phat kơđi hơmâo truh laih pơ anih tơhnă̱ gah dư̱r kơ krong anŭn,
   jing truh pơ khul plei Hôlôn, Yahzah laih anŭn Mêphaat,
  22truh pơ khul plei Dibôn, Nebô laih anŭn Bêt-Diblathayim,
  23truh pơ khul plei Kiryathayim, Bêt-Gamul laih anŭn Bêt-Meôn,
  24truh pơ khul plei Keriyôt hăng Bôrah,
   jing truh kơ abih bang khul plei pla Môab ataih laih anŭn jĕ yơh.
  25Kar hăng arăng khăt hĭ tơki hlô mơnơ̆ng glai yơh
   tơlơi kơtang lŏn čar Môab arăng khăt hĭ.
  Hơpăl tơngan dưi kơtang ñu jŏh hĭ laih.’ ”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  26“Ngă brơi kơ ƀing mơnuih lŏn čar Môab măt hĭ bĕ,
   yuakơ ƀing gơñu hơmâo pơgao pơang gơñu pô pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh.
  Arăng či klao djik kơ ƀing gơñu
   tơdang ƀing gơñu tơglŭng gơñu pô amăng anih ô̱̆ pơtah gơñu pô.
  27Ơ ƀing Môab ăh, djơ̆ mơ̆ ƀing gih klao djik kơ ƀing Israel hlâo adih?
   Ƀing gih tơtăh akŏ gih djik djak hĭ kơ ƀing gơñu
   tơdang ƀing gih pơhiăp pơruai kơ tơlơi ƀing gơ̆,
   jing kar hăng ƀing gơ̆ jing grup ƀing klĕ dŏp yơh.
  28Ơ ƀing hơdip amăng lŏn čar Môab hơi,
   đuaĭ lui hĭ bĕ khul plei pla gih laih anŭn nao dŏ bĕ amăng khul pơtâo,
   jing kar hăng čim pơrơgŏm pơkra hruh ñu.
  Đĭ nao dŏ bĕ ƀơi hơ̆ng dơ̆ng čư̆.

  29“Mơnuih mơnam hơmâo hơmư̆ laih tơlơi pơgao pơang lŏn čar Môab,
   jing tơlơi pơgao rơgao hơnơ̆ng laih anŭn tơlơi pơpŭ pơdun ñu pô,
  jing tơlơi pơgao pơang hăng tơlơi pơđĭ ñu pô
   laih anŭn tơlơi ngă ang pran jua ñu yơh!”
30Yahweh pơhiăp tui anai, “Kâo yơh thâo krăn kơ tơlơi ngă ang ñu,
   samơ̆ anŭn jing ƀu tŭ yua ôh,
   laih anŭn tơlơi pơư pơang ñu ƀu pơjing rai tơlơi hơget ôh.
  31Hơnŭn yơh Kâo či čŏk hia brơi kơ Môab,
   sĭt kơ abih bang ƀing Môab Kâo či ur kraih.
   Kâo ăt či kơŭ kơuăn brơi kơ ƀing mơnuih plei pơnăng Kirhareset yơh.
  32Ơ ƀing ană plei plei Sibmah hơi,
   jing kar hăng phŭn hrĕ boh kơƀâo,
   Kâo či hia brơi kơ ƀing gih hloh kơ Kâo hia brơi kơ plei Yazer yơh.
  Khul than phŭn boh kơƀâo anŭn lar hyu truh pơ rơsĭ Djai gah yŭ̱ yơh,
   laih anŭn ăt lar truh pơ ia bluh ƀơi plei Yazer gah dư̱r mơ̆n.
  Pô pơrai hơmâo pơrơngiă hĭ laih
   ƀơi khul boh kơƀâo tơsă hăng boh čroh tơsă pơkŏn gih.
  33Tơlơi hơ̆k kơdơ̆k mơak mơai đuaĭ hĭ
   mơ̆ng khul đang kơyâo boh čroh laih anŭn khul đang hơma lŏn čar Môab yơh.
  Kâo hơmâo pơthu hĭ laih ia boh kơƀâo rô mơ̆ng anih juă dje̱t boh kơƀâo anŭn.
   Sĭt ƀu hơmâo hlơi pô ôh juă dje̱t hăng tơlơi ur dreo mơak mơai.
  Wơ̆t tơdah pơ anŭn hơmâo khul tơlơi ur dreo kraih krin,
   samơ̆ hơdôm tơlơi ur anŭn ƀu djơ̆ tơlơi ur mơak mơai ôh.

  34“Dơnai ur kwưh ƀing lŏn čar Môab pơyơ̆ng đĭ
   mơ̆ng plei pơnăng Hesbôn truh pơ plei Elalêh hăng plei Yahaz,
  jing mơ̆ng plei Zôar truh pơ plei Hôrônayim hăng plei Eglat-Selisiyah,
   yuakơ wơ̆t tơdah hơnŏh ia Nimrim ăt thu krô hĭ mơ̆n.
  35Amăng Môab Kâo, Yahweh, či pơđŭt hĭ yơh
   kơ ƀing hlơi pô pơyơr khul gơnam pơyơr kơ ƀing yang rơba̱ng ƀơi khul anih glông
  laih anŭn čuh gơnam ƀâo mơngưi kơ ƀing yang rơba̱ng gơñu anŭn.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  36“Hơnŭn yơh, pran jua Kâo či čŏk hia brơi kơ Môab kar hăng dơnai đing klơt,
   jing kar hăng dơnai đing klơt rơngot brơi kơ ƀing mơnuih plei Kirhareset yơh,
   yuakơ mŭk dram ƀing gơñu pơkom pioh rơngiă hĭ laih.
  37Rĭm čô đah rơkơi či kuăh hĭ akŏ ñu
   laih anŭn khăt hĭ blâo ka̱ng ñu yơh.
  Rĭm čô brĕh hĭ tơngan ñu
   laih anŭn buh ao tâo ƀơi kơiăng ñu yơh.
  38Ƀơi abih bang bơbŭng sang tơhnă̱ amăng lŏn čar Môab
   laih anŭn ƀơi khul anih tơdron mơnuih pơjơnum glaĭ
  ƀu hơmâo tơlơi hơget ôh rơngiao kơ tơlơi kơŭ kơuăn,
   yuakơ Kâo hơmâo pơrai hĭ lŏn čar Môab
  kar hăng ngă pơčah hĭ sa boh čeh ƀu hơmâo hlơi pô kiăng dơ̆ng tah.”
 Anŭn jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  39“Lŏn čar Môab tŭ pơphač hĭ laih! Hơmư̆ bĕ tơlơi čŏk hia gơñu!
   Lăng bĕ! Môab wir hĭ rŏng ñu mlâo mlañ yơh!
   Lăng bĕ! Môab hơmâo jing hĭ laih kar hăng gơnam kơ tơlơi klao djik,
   jing gơnam kơ tơlơi pơhuĭ kơ abih bang mơnuih jum dar ñu yơh.”
40Anai yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp:
  “Lăng bĕ! Hơmâo ƀing ling tơhan či rai kơsung blah lŏn čar Môab
   kar hăng čim si̱ng juang trŭn tañ,
   hlak pra̱ng čăng ñu gah ngŏ kơ Môab.
  41Ƀing gơñu či blah mă hĭ khul plei pla
   laih anŭn mă hĭ khul kơđông kơjăp yơh.
  Amăng hrơi anŭn khul pran jua ƀing ling tơhan khĭn kơtang Môab
   či jing huĭ biă mă kar hăng pran jua sa čô đah kơmơi hlak đih apui yơh.
  42Môab či tŭ tơlơi pơrai hĭ ƀu jing hĭ lŏn čar dơ̆ng tah
   yuakơ ñu pơgao pơang ñu pô pơkơdơ̆ng glaĭ hĭ laih hăng Yahweh.
  43Ơ ƀing ană plei Môab hơi,
   tơlơi pơhuĭ pơbra̱l, khul amăng luh dơlăm laih anŭn khul čơđo̱ng yơh hlak krăp ƀing gih.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  44“Hlơi pô đuaĭ kơdŏp hĭ mơ̆ng tơlơi pơhuĭ pơbra̱l anŭn
   ñu anŭn či lê̆ pơ amăng luh dơlăm yơh,
  laih anŭn hlơi pô đĭ tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng amăng luh dơlăm anŭn
   ñu anŭn či djơ̆ čơđo̱ng yơh.
  Anŭn jing yuakơ Kâo či brơi rai ƀơi Môab
   thŭn pơkơhma̱l ñu yơh.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  45“Ƀing đuaĭ kơdŏp hơduah tơlơi pơgang amăng plei pơnăng Hesbôn,
   samơ̆ ƀu hơduah ƀuh ôh,
  yuakơ apui hơmâo tơbiă laih mơ̆ng plei Hesbôn anŭn,
   jing jơlah apui hlia mơ̆ng tŏng krah plei pơtao Sihôn git gai hlâo adih yơh.
  Apui anŭn čuh hĭ lŏn čar Môab
   mơ̆ng plei anŭn hlŏng truh pơ abih bang lŏn čar ƀing pơgao pơang ngañ bañ anŭn yơh.
  46Răm ƀăm yơh kơ ih, Ơ Môab hơi!
   Ƀing đaŏ kơ yang rơba̱ng Kemôs tŭ răm rơngiă laih.
  Ƀing đah rơkơi ih arăng ba pơđuaĭ hĭ laih pơ anih ataih,
   laih anŭn ƀing đah kơmơi ih ăt jing mơnă mơ̆n.

  47“Samơ̆ Kâo či rŭ̱ pơdơ̆ng glaĭ lŏn čar Môab
   amăng khul hrơi pơanăp.”
 Anŭn jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
 Ƀơi anai đŭt hĭ laih tơlơi phat kơđi ƀơi Môab.