50

Sự suy sụp của Ba-by-lôn và sự giải cứu của Y-sơ-ra-ên

1 Nầy là lời Đức Giê-hô-va bởi tiên tri Giê-rê-mi phán về Ba-by-lôn, về đất của người Canh-đê:
2 Hãy rao, hãy bảo cho các nước, và dựng cờ xí; hãy rao truyền đi, đừng có giấu! Hãy nói rằng: Ba-by-lôn bị bắt lấy; Bên đầy hổ thẹn; Mê-rô-đác bị kinh hãi; hình tượng nó mang xấu hổ, thần tượng nó bị phá đổ! 3 Vì một dân đến từ phương bắc nghịch cùng nó, làm cho đất nó ra hoang vu, không có dân ở nữa; người và súc vật đều trốn tránh, và đi mất.
4 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, trong kỳ đó, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa cùng nhau trở lại, vừa đi vừa khóc, tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. 5 Chúng nó hướng mặt về Si-ôn, hỏi thăm về nó mà rằng: Hãy đến, liên kết với Đức Giê-hô-va bởi một giao ước đời đời sẽ không quên!
6 Dân ta vốn là một bầy chiên lạc mất; những kẻ chăn làm cho lộn đường, để chúng nó lầm lạc trên các núi, đi từ núi qua gò, quên chỗ mình an nghỉ. 7 Phàm những kẻ gặp, đều vồ nuốt chúng nó; và những kẻ nghịch chúng nó đều nói rằng: Chúng ta không đáng tội, vì chúng nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, là nơi ở của sự công bình, tức là Đức Giê-hô-va, sự trông cậy của tổ phụ chúng nó. 8 Hãy trốn ra ngoài Ba-by-lôn, ra khỏi đất người Canh-đê, hãy đi như dê đực đi đầu bầy! 9 Vì nầy, ta sẽ khiến nhiều dân tộc dấy lên từ xứ phương bắc, và đến nghịch cùng Ba-by-lôn, các dân ấy sẽ dàn trận đánh Ba-by-lôn, và từ đó nó bị hãm lấy. Tên chúng nó bắn như tên của lính chiến giỏi, chẳng trở về không. 10 Canh-đê sẽ bị cướp lấy, phàm kẻ cướp lấy nó sẽ được no nê, Đức Giê-hô-va phán vậy.
11 Hỡi kẻ cướp sản nghiệp ta, vì các ngươi vui mừng hớn hở, vì các ngươi buông lung như bò cái tơ đạp lúa, reo hí như ngựa mập mạnh; 12 bởi vậy, mẹ các ngươi rất mang xấu hổ, kẻ đẻ các ngươi bị thẹn thuồng. Kìa, nó sẽ làm cuối cùng hàng các nước, một đồng vắng, một đất khô khan, một nơi sa mạc. 13 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, nó sẽ không có người ở nữa, chỉ thành ra nơi hoang vu cả; phàm những kẻ đi qua gần Ba-by-lôn sẽ lấy làm lạ, và xỉ báng về các tai nạn nó. 14 Hỡi các ngươi là kẻ hay giương cung! Hãy dàn trận nghịch cùng Ba-by-lôn chung quanh; hãy bắn nó, đừng tiếc tên: vì nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va. 15 Khá kêu la nghịch cùng nó khắp tư bề. Nó đã đầu hàng, lũy nó sập xuống, tường thành nó nghiêng đổ: Ấy là sự báo thù của Đức Giê-hô-va! Hãy trả thù nó: làm cho nó như nó đã làm. 16 Hãy diệt những kẻ gieo giống trong Ba-by-lôn, cùng kẻ cầm liềm trong mùa gặt; vì sợ gươm kẻ ức hiếp, ai nấy sẽ trở về dân mình, ai nấy sẽ trốn về đất mình.
17 Y-sơ-ra-ên là một con chiên tan lạc, bị sư tử đuổi theo. Trước hết vua A-si-ri đã vồ nuốt nó; nay sau hết Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã làm tan xương nó ra. 18 Vậy nên, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và đất nó, như đã phạt vua A-si-ri. 19 Đoạn ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về trong đồng cỏ nó. Nó sẽ ăn cỏ trên Cạt-mên và Ba-san, lòng nó sẽ được no nê trên các đồi Ép-ra-im và Ga-la-át. 20 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, bấy giờ, người ta sẽ tìm sự gian ác của Y-sơ-ra-ên, mà không có nữa; tìm tội lỗi của Giu-đa, mà chẳng thấy nữa đâu; vì ta sẽ tha tội cho những kẻ trong vòng chúng nó mà ta đã chừa lại.
21 Đức Giê-hô-va phán: Hãy lên đánh đất Mê-ra-tha-im, và dân cư Phê-cốt; hãy giết và diệt hết theo sau nó, và làm y như mọi điều ta đã dặn ngươi! 22 Tiếng kêu về giặc giã vang động trong đất; tai vạ lớn lắm. 23 Cái búa của cả đất đã bị bẻ gãy là dường nào! Ba-by-lôn đã trở nên hoang vu giữa các nước là dường nào! 24 Hỡi Ba-by-lôn, ta đã gài bẫy, và ngươi đã mắc vào mà không biết! Ngươi đã bị tìm và bắt được, vì đã tranh cạnh cùng Đức Giê-hô-va. 25 Đức Giê-hô-va đã mở kho khí giới mình, lấy binh khí của sự thạnh nộ ra; vì Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, có việc phải làm ra trong đất người Canh-đê. 26 Hãy đến từ bờ cõi rất xa nghịch cùng nó; hãy mở kho tàng nó ra, chất lên như đống, hãy diệt hết cả, đừng để lại chút gì! 27 Hãy giết mọi bò đực nó, đem xuống hàng thịt! Khốn nạn cho chúng nó, vì ngày chúng nó đã đến, ấy là kỳ thăm phạt chúng nó! 28 Hãy nghe tiếng kêu của kẻ đi trốn, của những kẻ thoát khỏi đất Ba-by-lôn, đặng rao ra trong Si-ôn sự báo thù của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, sự báo thù về đền thờ Ngài.
29 Hãy gọi hết thảy những kẻ cầm cung, mọi người giương cung đến đánh Ba-by-lôn; đóng trại chung quanh nó; đừng để cho ai thoát khỏi! Hãy theo công việc nó mà báo trả, làm cho nó trọn như nó đã làm; vì nó lên mình kiêu ngạo nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 30 Vậy nên, bọn trai trẻ nó sẽ ngã trên các đường phố, và trong ngày đó, những người đánh giặc của nó sẽ phải nín lặng, Đức Giê-hô-va phán vậy. 31 Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Hỡi dân kiêu ngạo, nầy, ta hờn giận ngươi: vì ngày ngươi đã đến, ấy là kỳ ta sẽ thăm phạt ngươi. 32 Kẻ kiêu ngạo sẽ xiêu tó, vấp ngã, không ai dựng lại. Ta sẽ đốt lửa nơi các thành nó, thiêu nuốt mọi sự chung quanh.
33 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa thảy cùng nhau chịu hà hiếp. Phàm những kẻ bắt chúng nó đi làm phu tù đều giữ chúng nó lại, chẳng khứng thả ra. 34 Đấng Cứu chuộc chúng nó là mạnh mẽ, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân. Ngài sẽ đối nại việc chúng nó chắc chắn, đặng cho cả đất được yên nghỉ, và làm bối rối dân cư Ba-by-lôn. 35 Đức Giê-hô-va phán: Gươm dao ở trên người Canh-đê, trên dân cư Ba-by-lôn, trên các quan trưởng và các người khôn ngoan nó. 36 Gươm dao ở trên những người khoe khoang, chúng nó sẽ nên người dại dột! Gươm dao ở trên những kẻ mạnh mẽ, chúng nó sẽ bị kinh khiếp! 37 Gươm dao ở trên những xe, ngựa, cùng mọi dân lộn giống giữa nó, chúng nó sẽ trở nên như đàn bà! Gươm dao ở trên những kho tàng nó đều bị cướp giựt! 38 Sự hạn hán ở trên các dòng nước nó đều bị cạn khô! Vì ấy là xứ những tượng chạm, chúng nó vì thần tượng mà điên cuồng. 39 Vậy nên, những thú rừng nơi sa mạc sẽ cùng chó rừng làm ổ tại đó, những chim đà cũng choán làm chỗ ở mình; Ba-by-lôn sẽ không hề có dân cư nữa, vả từ đời nầy đến đời kia người ta sẽ không ở đó. 40 Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ giống như Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các thành lân cận, khi Đức Chúa Trời hủy diệt các thành ấy; sẽ không có dân ở nữa, chẳng một con người nào đến trú ngụ tại đó.
41 Nầy, một dân đến từ phương bắc; một nước lớn và nhiều vua từ các phương đất rất xa bị xui giục. 42 Họ cầm cung và giáo, hung dữ chẳng có lòng thương xót. Tiếng họ giống như biển gầm; hỡi con gái Ba-by-lôn, họ đã cỡi ngựa mà đến, dàn trận để đánh ngươi. 43 Vua Ba-by-lôn đã nghe tin đó, thì tay người trở nên rã rời; sự buồn rầu bắt lấy người như cơn đau của người đàn bà đang đẻ.
44 Nầy, kẻ thù như sư tử lên từ các rừng rậm rạp của Giô-đanh mà nghịch cùng chỗ ở kiên cố. Thình lình, ta sẽ làm cho người Canh-đê trốn khỏi, và lập người mà ta đã chọn cai trị nó. Vì, ai giống như ta? Ai sẽ định kỳ cho ta? Ai là kẻ chăn đứng được trước mắt ta? 45 Vậy hãy nghe mưu Đức Giê-hô-va đã toan nghịch cùng Ba-by-lôn, và ý định Ngài đã lập nghịch cùng đất người Canh-đê. Thật, những con nhỏ trong bầy chúng nó sẽ bị kéo đi, làm cho nơi ở chúng nó trở nên hoang vu! --- 46 Nghe tiếng Ba-by-lôn bị bắt lấy, đất đều rúng động, và có tiếng kêu nghe ra giữa các nước.

50

Máh Santoiq Atỡng Tễ Cruang Ba-bulôn

1Nâi la máh ranáq Yiang Sursĩ atỡng cứq tễ cruang Ba-bulôn cớp máh cũai tâng ki neq: 2“Cruang Ba-bulôn khoiq rúng ralốh chơ! Cóq mới pỡq pau atỡng yỗn máh cruang sâng tễ ŏ́c nâi! Cóq ayŏ́ng aroâiq tếc yỗn noau dáng! Chỗi cutooq clỡp dŏq ŏ́c ki. Yiang Mar-duc ca tỗp Ba-bulôn sang khoiq pacháh nheq; máh rup noau cucốh sang cỡt casiet táq, cớp máh rup yiang nhơp nhuo khoiq noau pieih yỗn abuoiq mún nheq.
3“Bữn muoi tỗp cũai toâq tễ angia pỡng dŏq chíl cruang Ba-bulôn, cớp táq yỗn ntốq ki cỡt ntốq aiq. Chơ máh cũai cớp charán lúh nheq, tỡ bữn acán ntrớu ỡt noâng tâng ntốq ki.”

Tỗp I-sarel Bữn Píh Chu Loah Pỡ Cruang Alới

4Yiang Sursĩ pai neq: “Tữ tangái ki toâq, tỗp I-sarel cớp tỗp Yuda nhiam bo alới ravoât cứq, la Yiang Sursĩ alới. 5Alới ễ blớh rana pỡq chu cóh Si-ôn, chơ alới pỡq tâng rana ki. Alới ễ táq tếc parkhán mantái níc chóq cứq, cớp tỡ bữn hưoc táh noâng ŏ́c parkhán ki.
6“Cũai proai cứq cỡt samoât charán cữu ca cũai mantán loaq tâng cóh; alới cỡt samoât cữu ca lahĩc pỡq lahĩc chu tễ anũol cóh nâi chu anũol cóh ki; alới khoiq khlĩr nheq vil viang cớp ntốq alới ỡt. 7Dũ náq cũai ca ramóh alới chíl alới, cớp máh cũai par‑ũal alới pai neq: ‘Hái ŏ́q ŏ́c lôih, yuaq tỗp alới khoiq táq lôih chóq Yiang Sursĩ, án ca chứm siem alới, la Yiang Sursĩ achúc achiac alới ngcuang.’
8“Ơ máh cũai proai I-sarel ơi! Cóq anhia lúh chíq tễ cruang Ba-bulôn. Cóq anhia loŏh tễ cruang ki, cớp cỡt samoât mbễq tangcáh ca pỡq nhũang dŏq ayông yớu. 9Cứq ễ ớn máh cruang ca rêng lứq coah angia pỡng yỗn toâq parnơi chíl cruang Ba-bulôn. Tỗp alới ễ tayứng cỡt rana dŏq rachíl, chơ alới chíl riap cruang ki. Alới cỡt samoât cũai prian ca bễn lứq pán saráh. 10Máh cũai ki ễ rapốn cruang Ba-bulôn, cớp ĩt nheq máh crơng alới yoc ễ bữn. Cứq Yiang Sursĩ toâp pai máh ŏ́c nâi.”

Cruang Ba-bulôn Cỡt Rúng Ralốh

11Yiang Sursĩ pai neq: “Ơ máh cũai tâng cruang Ba-bulôn ơi! Anhia khoiq rapốn mun cứq. Anhia sâng bũi ỡn lứq, samoât ntroŏq cán ntôm tĩn saro, tỡ la samoât aséh tôl bữr. 12Mŏ vil anhia ca toâr la‑a sanua, nỡ‑ra cỡt casiet cớp chớc ralíh asễng. Cruang Ba-bulôn lứq cỡt cruang ca bữn chớc cacớt hỡn nheq tễ cruang canŏ́h, cỡt samoât ntốq aiq, ntốq khỗ, cớp ntốq moang chũah. 13Cỗ cứq sâng cutâu mứt chóq anhia, vil anhia cỡt vil ŏ́q cũai ỡt; noau táh yỗn cỡt ntốq rangual, chơ toâq máh cũai pỡq pha vil ki, alới sâng dớt cớp cahĩal.
14“Ơ máh cũai khễuq pán tamĩang ơi! Cóq anhia tayứng cỡt rana dŏq pỡq chíl vil Ba-bulôn, cớp crŏ́q lavíng vil ki. Cóq anhia pán máh saráh chóq vil Ba-bulôn, cỗ vil nâi khoiq táq lôih chóq cứq la Yiang Sursĩ. 15Cóq cu‑ỗi cutruah lavíng vil Ba-bulôn, yuaq án cỡt pê. Viang vil khoiq rúng ralốh nheq chơ. Cứq ntôm carláh dỡq chóq vil nâi. Ngkíq, cóq noau carláh dỡq cớp chíl tỗp alới, ariang alới khoiq chíl cũai canŏ́h chơ. 16Chỗi yỗn máh cũai Ba-bulôn bữn chóh tỡ la sot roaiq noâng. Dũ náq cũai tễ cruang canŏ́h ca ỡt tarôq tâng ntốq nâi, alới cỡt ngcŏh tễ ranáq rachíl; chơ alới miar mprieih chu loah pỡ vil viang alới bữm.”

Tỗp I-sarel Píh Chu Loah Pỡ Cruang Cutễq Alới

17Yiang Sursĩ pai neq: “Tỗp I-sarel cỡt samoât máh charán cữu ca cula samín rapuai cỡt pláh chap nheq. Dâu lứq puo Asi-ria cha sâiq alới; ma ntun ki, Nabũ-canêt-sa puo Ba-bulôn ễn déh nghang alới. 18Yuaq ngkíq, cứq Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq, la Ncháu tỗp I-sarel, pai neq: ‘Cứq lứq dững atoâq ŏ́c cuchĩt pứt pỡ puo Ba-bulôn cớp cruang cutễq án; cứq ễ táq samoât cứq khoiq táq chóq puo Asi-ria chơ. 19Cứq ễ yỗn tỗp I-sarel bữn píh chu loah pỡ cruang cutễq alới bữm. Chơ alới bữn cha sana tễ cóh Car-mel cớp tễ cruang Basan, dếh bữn cha palâi aluang tễ cuar cóh Ep-ra-im cớp Ki-liat; alới bữn cha ntrớu alới yoc ễ cha. 20Tữ tangái ki toâq, khân noau chuaq ŏ́c lôih tâng cruang I-sarel cớp tâng cruang Yuda, lứq tỡ ramóh. Yuaq cứq ễ táh lôih yỗn máh cũai ca cứq dŏq yỗn tamoong.’ Cứq Yiang Sursĩ toâp pai máh ŏ́c nâi.”

Yiang Sursĩ Manrap Cruang Ba-bulôn

21Yiang Sursĩ pai neq: “Cóq anhia pỡq chíl cũai ca ỡt tâng cruang Mê-rathêm cớp cruang Pê-côt. Cóq rapuai cớp pupứt nheq tỗp alới. Cóq táq dũ ramứh samoât cứq ớn anhia táq. Cứq Yiang Sursĩ toâp pai máh ŏ́c nâi. 22Bữn sưong noau rachíl casang tâng cruang Ba-bulôn, cớp bữn ranáq talốh pupứt ntâng lứq ỡt tâng ki. 23Parnúh cruang Ba-bulôn dốq pieih talốh cruang canŏ́h khoiq pacháh prữoi nheq. Chơ máh cruang canŏ́h sâng cahĩal lứq tễ máh ranáq ca khoiq toâq pỡ cruang ki. 24Ơ cruang Ba-bulôn ơi! Cỗ tian mới chíl cứq, ngkíq cứq to rabang dŏq mới chuat! Mới chuat tâng rabang ki, ma mới tỡ bữn dáng noau toâq cỗp mới. 25Cứq khoiq pớh ntốq cứq dŏq máh crơng choac; cớp cỗ cứq sâng cutâu mứt chóq anhia, ngkíq cứq ĩt aloŏh crơng choac ki. Cứq Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq, la Ncháu Nheq Tữh Cũai, ễ táq ranáq nâi chóq cruang Ba-bulôn. 26Cóq anhia toâq chíl cruang nâi cu angia, cớp pớh máh loau ca parỗm pachứm saro. Cóq bốq máh crơng ca anhia pũr bữn samoât noau bốq saro. Cóq talốh táh nheq cruang nâi, chỗi dŏq muoi ramứh ntrớu noâng. 27Cóq anhia cachĩt nheq máh cũai tahan. Cóq cachĩt táh nheq tỗp alới. Ŏ́c tỗiq bap khoiq toâq pỡ tỗp Ba-bulôn chơ. Tangái alới cóq roap tôt khoiq toâq chơ.”
28(Bữn máh cũai dễq cớp lúh yỗn vớt tễ cruang Ba-bulôn; chơ alới pỡq pau atỡng tâng cóh Si-ôn tễ ranáq Yiang Sursĩ carláh dỡq. Yiang Sursĩ hếq khoiq carláh dỡq cỗ alới talốh Dống Sang Toâr án.)
29“Cóq atỡng cũai khễuq pán tamĩang yỗn pỡq chíl vil Ba-bulôn. Cóq ớn dũ náq cũai ca têq pán saráh, cóq alới crŏ́q lavíng vil ki, chỗi yỗn muoi noaq aléq bữn lúh vớt. Cóq carláh dỡq loah yỗn li cớp máh ranáq alới khoiq táq; yuaq vil ki khoiq cardỗq cứq la Ncháu tỗp I-sarel, ca bráh o lứq. 30Yuaq ngkíq, máh cũai póng tâng vil nâi noau cachĩt tâng máh rana, cớp cũai tahan hỡ noau cachĩt tâng muoi tangái ki tê. Cứq Yiang Sursĩ toâp pai máh ŏ́c nâi.
31“Ơ cruang Ba-bulôn ơi! Anhia noâng pla khếh. Yuaq ngkíq, cứq Yiang Sursĩ, Ncháu Sốt Toâr Lứq, ma toâq chíl anhia. Yuaq tangái anhia cóq roap tôt khoiq toâq chơ. 32Anhia ca pla, lứq anhia cudốh cớp dớm, ma tỡ bữn noau acŏ́q ayuor anhia. Cứq lứq chŏ́ng táh máh vil anhia, cớp dũ ramứh tâng vil ki cỡt rúng ralốh nheq.”
33Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq pai neq: “Bữn noau padâm cũai I-sarel cớp cũai Yuda; máh cũai ca cỗp tỗp alới ỡt kĩaq nhêng níc, cớp tỡ bữn acláh alới. 34Ma án ca chuai amoong alới la bán rêng lứq, cớp ramứh án la Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq. Án bễng chuai tỗp alới; án atoâq ŏ́c ien khễ pỡ cruang alới; mŏ án atoâq ŏ́c túh coat yỗn tỗp Ba-bulôn.”
35Yiang Sursĩ pai neq: “Ba-bulôn cóq cuchĩt! Cũai proai Ba-bulôn cóq cuchĩt, dếh máh cũai sốt cớp cũai rangoaiq hỡ. 36Ŏ́c cuchĩt cóq toâq pỡ cũai tang bỗq ca táq ntỡng lauq; alới sacũl lứq. Ŏ́c cuchĩt cóq toâq pỡ máh cũai tahan; alới croŏq lứq. 37Cóq pupứt nheq aséh cớp sễ aséh rachíl tâng cruang nâi. Cóq yỗn ŏ́c cuchĩt toâq pỡ máh cũai tahan noau chang; nheq tữh alới cỡt ieuq ot lakéh lakiei lứq; cóq talốh nheq ntốq alới dŏq máh mun alới bữn pũr ĩt. 38Cóq yỗn ranáq cahễng khỗ toâq pỡ cutễq alới, yỗn dỡq cỡt sarễt khỗ nheq chũop cutễq cruang nâi. Tỗp Ba-bulôn bữn rup sa‑ữi dŏq cucốh sang. Máh rup ki táq yỗn máh cũai proai cỡt cũai sacũl.
39“Yuaq ngkíq, máh charán cruang cớp ayoŏng ễ toâq ỡt tâng vil Ba-bulôn, dếh calang curóq hỡ ỡt tâng ntốq ki. Dũ dỡi tỡ bữn cũai ỡt noâng tâng vil ki. 40Máh ranáq nâi ễ toâq pỡ vil Ba-bulôn, samoât khoiq toâq pỡ vil Sadôm cớp vil Camô-rơ bo cứq talốh táh bar vil ki cớp máh vil ỡt mpễr ki. Cứq Yiang Sursĩ toâp pai máh ŏ́c nâi.
41“Bữn muoi tỗp cũai ntôm toâq tễ cruang coah angia pỡng, la muoi cruang yơng cớp rêng lứq; dếh sa‑ữi puo hỡ thrũan ễ chíl. 42Tỗp alới yống tamĩang cớp dau; tỗp alới tachoât lứq, ŏ́q loâng mứt sâng sarũiq. Sưong alới casang samoât hỗ canoâq tễ dỡq mưt. Alới ỡt aséh lúh tamprũol mut chu ntốq rachíl dŏq rachíl cớp tỗp Ba-bulôn. 43Toâq puo Ba-bulôn sâng cũai dững santoiq pau pai ngkíq, atĩ án cỡt lamên la‑ot ŏ́q rêng loâng. Ngkíq, án cỡt túh arức cớp ngua a‑ĩ a‑ỗiq lứq tâng mứt pahỡm, cỡt samoât mansễm sâng a‑ĩ ntôm ễ sễt con.
44“Cula samín loŏh tễ sarứng mpễr crỗng Yôr-dan; chơ án pỡq chu ruang bát ca ramoong o; lứq samoât ngkíq tê cứq Yiang Sursĩ ễ loŏh táq yỗn tỗp Ba-bulôn lúh nheq tễ vil alới. Chơ án ca cứq khoiq rưoh yỗn cỡt sốt, bữn cỡt sốt tâng cruang alới. Noau rơi tarlĩ cớp cứq? Noau khớn cardỗq cớp cứq? Cũai sốt aléq rơi catáng cứq? 45Ngkíq, cóq tamứng máh ngê cứq thrũan dŏq yỗn vil Ba-bulôn, cớp máh ranáq cứq ễ táq chóq cũai proai tâng vil nâi. Máh con acái alới pĩeiq noau âc dững nheq, chơ dũ náq cũai cỡt ngcŏh lứq. 46Chũop cutễq nâi cỡt cacưt, toâq sâng cruang Ba-bulôn cỡt pê, cớp sưong cuclỗiq cucling ralông nheq toâq dếh pỡ cruang canŏ́h.”