Sự suy sụp của Ba-by-lôn và sự giải cứu của Y-sơ-ra-ên
1 Nầy là lời Đức Giê-hô-va bởi tiên tri Giê-rê-mi phán về Ba-by-lôn, về đất của người Canh-đê:⚓ 2 Hãy rao, hãy bảo cho các nước, và dựng cờ xí; hãy rao truyền đi, đừng có giấu! Hãy nói rằng: Ba-by-lôn bị bắt lấy; Bên đầy hổ thẹn; Mê-rô-đác bị kinh hãi; hình tượng nó mang xấu hổ, thần tượng nó bị phá đổ! 3 Vì một dân đến từ phương bắc nghịch cùng nó, làm cho đất nó ra hoang vu, không có dân ở nữa; người và súc vật đều trốn tránh, và đi mất. 4 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, trong kỳ đó, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa cùng nhau trở lại, vừa đi vừa khóc, tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. 5 Chúng nó hướng mặt về Si-ôn, hỏi thăm về nó mà rằng: Hãy đến, liên kết với Đức Giê-hô-va bởi một giao ước đời đời sẽ không quên! 6 Dân ta vốn là một bầy chiên lạc mất; những kẻ chăn làm cho lộn đường, để chúng nó lầm lạc trên các núi, đi từ núi qua gò, quên chỗ mình an nghỉ. 7 Phàm những kẻ gặp, đều vồ nuốt chúng nó; và những kẻ nghịch chúng nó đều nói rằng: Chúng ta không đáng tội, vì chúng nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, là nơi ở của sự công bình, tức là Đức Giê-hô-va, sự trông cậy của tổ phụ chúng nó. 8 Hãy trốn ra ngoài Ba-by-lôn, ra khỏi đất người Canh-đê, hãy đi như dê đực đi đầu bầy!⚓9 Vì nầy, ta sẽ khiến nhiều dân tộc dấy lên từ xứ phương bắc, và đến nghịch cùng Ba-by-lôn, các dân ấy sẽ dàn trận đánh Ba-by-lôn, và từ đó nó bị hãm lấy. Tên chúng nó bắn như tên của lính chiến giỏi, chẳng trở về không. 10 Canh-đê sẽ bị cướp lấy, phàm kẻ cướp lấy nó sẽ được no nê, Đức Giê-hô-va phán vậy. 11 Hỡi kẻ cướp sản nghiệp ta, vì các ngươi vui mừng hớn hở, vì các ngươi buông lung như bò cái tơ đạp lúa, reo hí như ngựa mập mạnh; 12 bởi vậy, mẹ các ngươi rất mang xấu hổ, kẻ đẻ các ngươi bị thẹn thuồng. Kìa, nó sẽ làm cuối cùng hàng các nước, một đồng vắng, một đất khô khan, một nơi sa mạc. 13 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, nó sẽ không có người ở nữa, chỉ thành ra nơi hoang vu cả; phàm những kẻ đi qua gần Ba-by-lôn sẽ lấy làm lạ, và xỉ báng về các tai nạn nó. 14 Hỡi các ngươi là kẻ hay giương cung! Hãy dàn trận nghịch cùng Ba-by-lôn chung quanh; hãy bắn nó, đừng tiếc tên: vì nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va. 15 Khá kêu la nghịch cùng nó khắp tư bề. Nó đã đầu hàng, lũy nó sập xuống, tường thành nó nghiêng đổ: Ấy là sự báo thù của Đức Giê-hô-va! Hãy trả thù nó: làm cho nó như nó đã làm. 16 Hãy diệt những kẻ gieo giống trong Ba-by-lôn, cùng kẻ cầm liềm trong mùa gặt; vì sợ gươm kẻ ức hiếp, ai nấy sẽ trở về dân mình, ai nấy sẽ trốn về đất mình. 17 Y-sơ-ra-ên là một con chiên tan lạc, bị sư tử đuổi theo. Trước hết vua A-si-ri đã vồ nuốt nó; nay sau hết Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã làm tan xương nó ra. 18 Vậy nên, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và đất nó, như đã phạt vua A-si-ri. 19 Đoạn ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về trong đồng cỏ nó. Nó sẽ ăn cỏ trên Cạt-mên và Ba-san, lòng nó sẽ được no nê trên các đồi Ép-ra-im và Ga-la-át. 20 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, bấy giờ, người ta sẽ tìm sự gian ác của Y-sơ-ra-ên, mà không có nữa; tìm tội lỗi của Giu-đa, mà chẳng thấy nữa đâu; vì ta sẽ tha tội cho những kẻ trong vòng chúng nó mà ta đã chừa lại. 21 Đức Giê-hô-va phán: Hãy lên đánh đất Mê-ra-tha-im, và dân cư Phê-cốt; hãy giết và diệt hết theo sau nó, và làm y như mọi điều ta đã dặn ngươi! 22 Tiếng kêu về giặc giã vang động trong đất; tai vạ lớn lắm. 23 Cái búa của cả đất đã bị bẻ gãy là dường nào! Ba-by-lôn đã trở nên hoang vu giữa các nước là dường nào! 24 Hỡi Ba-by-lôn, ta đã gài bẫy, và ngươi đã mắc vào mà không biết! Ngươi đã bị tìm và bắt được, vì đã tranh cạnh cùng Đức Giê-hô-va. 25 Đức Giê-hô-va đã mở kho khí giới mình, lấy binh khí của sự thạnh nộ ra; vì Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, có việc phải làm ra trong đất người Canh-đê. 26 Hãy đến từ bờ cõi rất xa nghịch cùng nó; hãy mở kho tàng nó ra, chất lên như đống, hãy diệt hết cả, đừng để lại chút gì! 27 Hãy giết mọi bò đực nó, đem xuống hàng thịt! Khốn nạn cho chúng nó, vì ngày chúng nó đã đến, ấy là kỳ thăm phạt chúng nó! 28 Hãy nghe tiếng kêu của kẻ đi trốn, của những kẻ thoát khỏi đất Ba-by-lôn, đặng rao ra trong Si-ôn sự báo thù của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, sự báo thù về đền thờ Ngài. 29 Hãy gọi hết thảy những kẻ cầm cung, mọi người giương cung đến đánh Ba-by-lôn; đóng trại chung quanh nó; đừng để cho ai thoát khỏi! Hãy theo công việc nó mà báo trả, làm cho nó trọn như nó đã làm; vì nó lên mình kiêu ngạo nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.⚓30 Vậy nên, bọn trai trẻ nó sẽ ngã trên các đường phố, và trong ngày đó, những người đánh giặc của nó sẽ phải nín lặng, Đức Giê-hô-va phán vậy. 31 Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Hỡi dân kiêu ngạo, nầy, ta hờn giận ngươi: vì ngày ngươi đã đến, ấy là kỳ ta sẽ thăm phạt ngươi. 32 Kẻ kiêu ngạo sẽ xiêu tó, vấp ngã, không ai dựng lại. Ta sẽ đốt lửa nơi các thành nó, thiêu nuốt mọi sự chung quanh. 33 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa thảy cùng nhau chịu hà hiếp. Phàm những kẻ bắt chúng nó đi làm phu tù đều giữ chúng nó lại, chẳng khứng thả ra. 34 Đấng Cứu chuộc chúng nó là mạnh mẽ, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân. Ngài sẽ đối nại việc chúng nó chắc chắn, đặng cho cả đất được yên nghỉ, và làm bối rối dân cư Ba-by-lôn. 35 Đức Giê-hô-va phán: Gươm dao ở trên người Canh-đê, trên dân cư Ba-by-lôn, trên các quan trưởng và các người khôn ngoan nó. 36 Gươm dao ở trên những người khoe khoang, chúng nó sẽ nên người dại dột! Gươm dao ở trên những kẻ mạnh mẽ, chúng nó sẽ bị kinh khiếp! 37 Gươm dao ở trên những xe, ngựa, cùng mọi dân lộn giống giữa nó, chúng nó sẽ trở nên như đàn bà! Gươm dao ở trên những kho tàng nó đều bị cướp giựt! 38 Sự hạn hán ở trên các dòng nước nó đều bị cạn khô! Vì ấy là xứ những tượng chạm, chúng nó vì thần tượng mà điên cuồng. 39 Vậy nên, những thú rừng nơi sa mạc sẽ cùng chó rừng làm ổ tại đó, những chim đà cũng choán làm chỗ ở mình; Ba-by-lôn sẽ không hề có dân cư nữa, vả từ đời nầy đến đời kia người ta sẽ không ở đó.⚓40 Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ giống như Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các thành lân cận, khi Đức Chúa Trời hủy diệt các thành ấy; sẽ không có dân ở nữa, chẳng một con người nào đến trú ngụ tại đó.⚓ 41 Nầy, một dân đến từ phương bắc; một nước lớn và nhiều vua từ các phương đất rất xa bị xui giục. 42 Họ cầm cung và giáo, hung dữ chẳng có lòng thương xót. Tiếng họ giống như biển gầm; hỡi con gái Ba-by-lôn, họ đã cỡi ngựa mà đến, dàn trận để đánh ngươi. 43 Vua Ba-by-lôn đã nghe tin đó, thì tay người trở nên rã rời; sự buồn rầu bắt lấy người như cơn đau của người đàn bà đang đẻ. 44 Nầy, kẻ thù như sư tử lên từ các rừng rậm rạp của Giô-đanh mà nghịch cùng chỗ ở kiên cố. Thình lình, ta sẽ làm cho người Canh-đê trốn khỏi, và lập người mà ta đã chọn cai trị nó. Vì, ai giống như ta? Ai sẽ định kỳ cho ta? Ai là kẻ chăn đứng được trước mắt ta? 45 Vậy hãy nghe mưu Đức Giê-hô-va đã toan nghịch cùng Ba-by-lôn, và ý định Ngài đã lập nghịch cùng đất người Canh-đê. Thật, những con nhỏ trong bầy chúng nó sẽ bị kéo đi, làm cho nơi ở chúng nó trở nên hoang vu! --- 46 Nghe tiếng Ba-by-lôn bị bắt lấy, đất đều rúng động, và có tiếng kêu nghe ra giữa các nước.
50
Nau Mbơh Lor Ma Bri Babilôn
1Aơ nau Yêsu ngơi ma kôranh nơm mbơh lor Y-Yêrêmi, nau lah ma bri Babilôn, ma bri neh phung Kaldê: 2"Mbơh tâm mpơl hom ta nklang phung ntil mpôl bunuyh, n'hao bok pla jêh ri mbơh hom, lơi ta pôn mo ôh nau nây, jêh ri lah: Babilôn lĕ bu sŏk jêh, brah Bel lĕ prêng jêh, brah Mêrôdak bêng ma nau klach, Bu ƀư prêng jêh rup trah păng, rup brah păng lĕ ƀư rlâm rai jêh.' 3Yorlah geh du ndŭl mpôl tă bơh dor lơ văch hao lơh păng ăn bri păng jêng rngol, jêh ri mâu mra geh bunuyh gŭ ta nây ôh; nđâp bunuyh jêh ri mpô mpa du der, jêh ri roh hêng. 4Yêhôva lah: "Tâm nar nây jêh ri tâm rô̆ nây, "phung kon sau Israel jêh ri phung kon sau Yuda plơ̆ sĭt ndrel n'grŭp, hăn jăng jai jêh ri nhĭm jăng jai, jêh ri khân păng ŭch joi Yêhôva Brah Ndu khân păng. 5Khân păng ôp trong hăn ma ƀon Siôn, muh măt khân păng rle ma ƀon Siôn, khân păng mra văch jêh ri tâm nkol khân păng đah Yêhôva du nau tâm rnglăp n'ho ro khân păng mâu mra chuêl ôh. 6"Phung ƀon lan gâp lĕ jêng nâm bu biăp chuêl trong jêh; phung rmăk khân păng ƀư vĭ trong, ăn ma khân păng nsong mblêng ta yôk, hăn poh yôk hao nor, khân păng chuêl ndrung n'gar khân păng nơm. 7Ma mbu moh mâp khân păng sreh sa gŭch khân păng, jêh ri phung rlăng khân păng lah: 'Hên mâu jêng tih ôh, yorlah khân păng hŏ ƀư tih jêh ma Yêhôva, jêng ntŭk gŭ tâm nau sŏng (ntŭk gơ̆ se khân păng ngăn), nâm bu ntĭt Yêhôva, Nơm phung che khân păng kâp gân.' 8"Du hom tă bơh ƀon Babilôn, jêh ri du luh bơh bri Kaldê, jêh ri jêng nâm bu be nkuăng hăn leo mpôl! 9Yorlah aơ, gâp mra nsônh âk ntil mpôl bunuyh du dâk tă bơh bri dor lơ, jêh ri tâm lơh đah Babilôn, lĕ rngôch phung mpôl băl nây khân păng mra dăp tahan lơh Babilôn, jêh ri ntơm bơh nây dơi bu mra sŏk ƀon Babilôn. Hăr khân păng jêng nâm bu tahan lĕ blau ngăn, mâu sĭt ti dơm ôh. 10Bu mra pit in phung Kaldê; ma phung pit in păng mra dơi hơm răm ngăn," Yêhôva lah. 11"Yorlah khân may rhơn jêh ri răm, Ơ phung pit in drap ndơn gâp, yorlah khân may hăn pâl nâm bu du mlâm ndrôk druh tân ndrêch gơ̆ nse, jêh ri krĭk nâm bu seh nkuăng gar me. 12Yor nây, mê̆ khân may mra prêng; bu mra ƀư bêk-prêng nơm deh ma khân may. Aơ, ôbăl mra jêng nơm dơm dam Lor ma phung mpôl băl bunuyh êng, du ntŭk bri drah, jêh ri ntŭk neh kroh đang, jêh ri bri dơm. 13Yor nau Yêhôva nuih mâu mra geh đŏng ôh bunuyh gŭ ta nây, kanŏng păng mra jêng rngol da dê; ma mbu hăn prot dăch ƀon Babilôn mra hih rhâl ngăn, jêh ri gơm mưch lĕ nau sôt rmanh păng. 14Ơ lĕ rngôch phung rnă na! (djôt na)dăp hom phung tahan tâm lơh đah Babilôn gŭ jŭm; pănh păng, lơi ta têm ôh hăr: yorlah păng hŏ ƀư tih jêh đah Yêhôva. 15Troh nter hom gŭ jŭm tâm lơh đah păng, Păng hŏ ran lăp khân may jêh, pôih nâp păng rlâm rai jêh. Mpêr ƀon păng lĕ klưh rlâm: nây jêng nau Yêhôva har plơng bôk! Plơng hom bôk păng, ƀư ma păng nâm bu păng hŏ ƀư jêh ma phung êng, 16Ƀư rai lơi nơm srih ntil tă bơh Babilôn, nđâp ma nơm ndjôt nhuĕ dôl yan rek; yorlah klach ma đao dau nơm tŭn jot, ăn ăp nơm plơ̆ sĭt ma bri ƀon păng nơm, jêh ri ăp nơm nchuăt du ma bri păng nơm. 17"Israel jêng du mlâm biăp chah rai hiơt jêh, phung yau mŭr tĭng kăp jêh. Ntơm saơm hađăch Asiri hêk sa jêh păng. Jêh ri kêng dăch dŭt Y-Nebukatnetsar hađăch Babilôn gĭnh jêh nting păng." 18Yor nây, pô aơ Yêhôva ma phung tahan, Brah Ndu Israel lah: "Aơ, gâp mra tâm rmal hađăch Babilôn, jêh ri bri dak păng, Nâm bu gâp hŏ tâm rmal jêh hađăch bri Asiri. 19Pôri, gâp mra njŭn sĭt Israel ma ntŭk păng nơm, jêh ri khân păng mra sa gơ̆ ta yôk Karmel jêh ri tâm bri Basan, nuih n'hâm păng hơm mpay ta kalơ gôl yôk bri Êphraim jêh ri tâm bri Galaat. 20Yêhôva lah: "Tâm nar nây, jêh ri rnôk nây, bu mra joi nau kue tâm phung Israel, ƀiălah mâu mra saơ ôh; bu mra joi nau tih tâm phung Yuda, ƀiălah mâu mra saơ ôh; yorlah gâp mra yô̆ an nau tih ma phung khân păng hôm e gâp prăp." 21Yêhôva lah: "Hăn hao lơh hom bri Mêrathaim, jêh ri ƀư ma phung gŭ tâm bri Pêkôt. Nkhĭt jêh ri ƀư rai lĕ khân păng. "Jêh ri ƀư tĭng nâm lĕ ntil nau gâp hŏ ntĭnh jêh ma may! 22Nteh nau tâm lơh bu tăng tâm n'gor; jêh ri nau ƀư rai toyh ngăn 23Me nôp ma lam neh ntu, bu ƀư pă (deh) jêh chah nâm nây ro! Babilôn hŏ jêng rngol jêh ta nklang ntĭl mpôl bunuyh nây ro! 24Gâp hŏ sân jêh dăk ma may, jêh ri may geh dăk jêh ƀiălah mâu gĭt! Lor ma may gĭt nau nây, bu saơ jêh ri nhŭp may, yorlah may hŏ tâm rdâng jêh đah Yêhôva. 25Yêhôva pơk jêh ntŭk prăp ndơ tâm lơh păng, jêh ri ngluh jêh ndơ păng tâm lơh yor nau păng nuih; yorlah Yêhôva, Brah Ndu ma phung tahan, geh du nau kan ŭch ƀư, tâm bri phung Kaldê. 26Hăn tât hom tă bơh bri dŭt ngai tâm lơh đah păng; pơk han ntŭk prăp ndơ tâm lơh păng, bun hom păng nâm bu bun mbŭch, jêh ri ƀư rai hom lĕ ƀhiau, lơi hôm om djê̆ djănh! 27Nkhĭt hom lĕ rngôch ndrôk nkuăng păng, ndjôt leo ntŭk bu ƀư puăch (iăm)! Rêh ni ngăn ma khân păng, yorlah nar ma khân păng hŏ tât jêh, jêng rnôk tâm rmal ma khân păng! 28Iăt hom! Bâr phung nchuăt du nter, jêh ri phung lĕ klaih tă bơh bri Babilôn mbơh tâm ƀon Siôn nau Yêhôva Brah Ndu he har plơng bôk, nau plơng bôk ma ngih brah Păng. 29"Kuăl hom lĕ rngôch phung djôt rnă na, ăp nơm phung blau pănh hăn tât lơh Babilôn; ƀư rmak gŭ jŭm păng; lơi hôm ăn du huê dơi klaih! Nsĭt hom ma păng tĭng nâm kan păng hŏ bư jêh, ƀư ma păng tĭng nâm lĕ rngôch nau păng hŏ tă mâp ƀư jêh; yorlah păng hŏ tâm rdâng jêh đah Yêhôva, Nơm Kloh Ueh he. 30Yor nây phung bu klâu ndăm păng mra chalôt tâm trong ƀon păng, jêh ri lĕ rngôch phung tahan păng mra rai yot tâm nar nây." Yêhôva lah. 31"Aơ, gâp gŭ tâm rdâng đah may, Ơ nơm sưr, "Yêhôva Brah Ndu ma phung tahan lah: "Yorlah nar ma may hŏ tât jêh, jêng rnôk gâp tâm rmal ma may. 32Nơm sưr mra chêh jêh ri prah, mâu geh nơm rdâk păng ôh, jêh ri gâp mra su ŭnh tâm ƀon toyh păng, jêh ri ŭnh mra sa lĕ rngôch ndơ gŭ jŭm păng. 33Pô aơ Yêhôva ma phung tahan lah: "Bu tŭn jot jêh phung kon sau Israel, nđâp phung kon sau Yuda ndrel ma khân păng; lĕ rngôch phung nhŭp leo khân păng jêng bu nă nkân ăn rjăp, lah khân păng dun kŏ mâu mƀơk lĕ. 34Nơm Tâm chuai khân păng jêng katang ngăn, amoh Păng jêng Yêhôva Brah Ndu ma phung tahan. N'hêl nanê̆ Păng mra king kan khân păng, gay ăn ma lĕ rngôch bri dak gŭ mpăn, jêh ri ƀư rŭng răng ma phung gŭ tâm bri Babilôn. 35Yêhôva lah: "Ăn du mlâm đao dau lơh ma phung Kaldê." "Lơh nđâp ma phung gŭ tâm ƀon Babilôn, ma phung kôranh jêh ri phung blau mĭn khân păng! 36Ăn geh du mlâm pêh đao ƀư ma phung sưr rlau, gay ma khân păng jêng rluk! Ăn du mlâm pêh đao ƀư ma phung tahan khân păng, gay ma khân păng rai yot! 37Ăn du mlâm pêh-đao ƀư ma seh jêh ri ndeh seh khân păng, jêh ri nđâp ma lĕ rngôch phung mpôl bunuyh gŭ tâm pot tâm nklang khân păng gay ma khân păng jêng nâm bu bu ur! Ăn du mlâm pêh-đao ƀư ma lĕ rngôch drăp ndơ khân păng, gay ma bu dơi pit in prăp ndơ nây! 38Ăn trôk prăng ta kalơ n'hor dak khân păng, gay ma khân păng suăt, kroh! Yorlah bri păng jêng bri bêng ma rup trah, jêh ri phung nây moih yor rup brah. 39Yor nây mpô mpa bri jêh ri so bri mra gŭ tâm ƀon Babilôn, jêh ri sĭm ôtrus mra gŭ tâm păng; mâu mra geh bunuyh gŭ n'ho ro đŏng ôh tâm ƀon Babilôn, ntơm bơh rô̆ aơ tât rô̆ kăndơ̆ bu mâu mra gŭ ôh ta nây." 40Pô aơ Yêhôva lah: "Păng mra jêng nâm bu Sôdôm, Gômôrơ, jêh ri ƀon chiau meng păng, tơlah Brah Ndu ƀư rai lĕ rngôch ƀon nây; mâu mra geh bunuyh gŭ đŏng ôh, kŏ mâu geh lĕ bunuyh hăn tât gŭ ta nây." 41Aơ, geh du mpôl bunuyh ƀon lan văch ta bri dor lơ; du ntil mpôl bunuyh katang jêh ri geh âk hađăch ntơm du dâk tă bơh ntŭk bôl neh ntu. 42Khân păng djôt na jêh ri tak; khân păng jêng djơh mhĭk, jêh ri mâu gĭt nau yô̆ ôh. Nteh khân păng nâm bu nteh tang târ dak lêng; Ơ phung kon bu ur ƀon Babilôn! Khân păng hŏ ncho seh văch tât jêh, Lĕ dăp nthăng nam bu bunuyh ma nau tâm lơh; gay tâm rdâng đah may. 43Hađăch ƀon Babilôn lĕ tăng jêh nau bu mbơh ma khân păng, jêh ri ti păng jêng ra-ai; nau rngot-rvê kuăn păng, geh nau ji nâm bu ur veng deh. 44Aơ, nơm rlăng nâm bu du mlâm yau mŭr hao tă bơh bri krŏng dak krong Yurdan ŭch tâm rdâng đah ntŭk gŭ nâp, ƀât lât, gâp mra ăn phung Kaldê nchuăt du, jêh ri gâp njêng dơm bunuyh gâp hŏ săch jêh chiă uănh khân păng. Yorlah, mbu moh jêng nâm bu gâp? Mra dơi tâm rdâng đah gâp? Mbu rmăk biăp dơi gŭ ndâk ta năp gâp?" 45Yor nây iăt hom nau Yêhôva nkra jêh ŭch ƀư ma ƀon Babilôn, jêh ri nau păng nkra jêh ŭch ƀư ma bri phung Kaldê: Nhêl nê̆, bu mra nhŭp rdu kon biăp bơh ndrung n'gar păng; gay ƀư rai ntŭk ndrêch gơ̆ khân păng jêng rngol! 46Tơlah tăng nteh bu sŏk ƀon Babilôn, neh ntu mra n'găr, jêh ri nau nter bu mra tăng ta nklang lam bri neh ntu.