50

Sự suy sụp của Ba-by-lôn và sự giải cứu của Y-sơ-ra-ên

1 Nầy là lời Đức Giê-hô-va bởi tiên tri Giê-rê-mi phán về Ba-by-lôn, về đất của người Canh-đê:
2 Hãy rao, hãy bảo cho các nước, và dựng cờ xí; hãy rao truyền đi, đừng có giấu! Hãy nói rằng: Ba-by-lôn bị bắt lấy; Bên đầy hổ thẹn; Mê-rô-đác bị kinh hãi; hình tượng nó mang xấu hổ, thần tượng nó bị phá đổ! 3 Vì một dân đến từ phương bắc nghịch cùng nó, làm cho đất nó ra hoang vu, không có dân ở nữa; người và súc vật đều trốn tránh, và đi mất.
4 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, trong kỳ đó, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa cùng nhau trở lại, vừa đi vừa khóc, tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. 5 Chúng nó hướng mặt về Si-ôn, hỏi thăm về nó mà rằng: Hãy đến, liên kết với Đức Giê-hô-va bởi một giao ước đời đời sẽ không quên!
6 Dân ta vốn là một bầy chiên lạc mất; những kẻ chăn làm cho lộn đường, để chúng nó lầm lạc trên các núi, đi từ núi qua gò, quên chỗ mình an nghỉ. 7 Phàm những kẻ gặp, đều vồ nuốt chúng nó; và những kẻ nghịch chúng nó đều nói rằng: Chúng ta không đáng tội, vì chúng nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, là nơi ở của sự công bình, tức là Đức Giê-hô-va, sự trông cậy của tổ phụ chúng nó. 8 Hãy trốn ra ngoài Ba-by-lôn, ra khỏi đất người Canh-đê, hãy đi như dê đực đi đầu bầy! 9 Vì nầy, ta sẽ khiến nhiều dân tộc dấy lên từ xứ phương bắc, và đến nghịch cùng Ba-by-lôn, các dân ấy sẽ dàn trận đánh Ba-by-lôn, và từ đó nó bị hãm lấy. Tên chúng nó bắn như tên của lính chiến giỏi, chẳng trở về không. 10 Canh-đê sẽ bị cướp lấy, phàm kẻ cướp lấy nó sẽ được no nê, Đức Giê-hô-va phán vậy.
11 Hỡi kẻ cướp sản nghiệp ta, vì các ngươi vui mừng hớn hở, vì các ngươi buông lung như bò cái tơ đạp lúa, reo hí như ngựa mập mạnh; 12 bởi vậy, mẹ các ngươi rất mang xấu hổ, kẻ đẻ các ngươi bị thẹn thuồng. Kìa, nó sẽ làm cuối cùng hàng các nước, một đồng vắng, một đất khô khan, một nơi sa mạc. 13 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, nó sẽ không có người ở nữa, chỉ thành ra nơi hoang vu cả; phàm những kẻ đi qua gần Ba-by-lôn sẽ lấy làm lạ, và xỉ báng về các tai nạn nó. 14 Hỡi các ngươi là kẻ hay giương cung! Hãy dàn trận nghịch cùng Ba-by-lôn chung quanh; hãy bắn nó, đừng tiếc tên: vì nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va. 15 Khá kêu la nghịch cùng nó khắp tư bề. Nó đã đầu hàng, lũy nó sập xuống, tường thành nó nghiêng đổ: Ấy là sự báo thù của Đức Giê-hô-va! Hãy trả thù nó: làm cho nó như nó đã làm. 16 Hãy diệt những kẻ gieo giống trong Ba-by-lôn, cùng kẻ cầm liềm trong mùa gặt; vì sợ gươm kẻ ức hiếp, ai nấy sẽ trở về dân mình, ai nấy sẽ trốn về đất mình.
17 Y-sơ-ra-ên là một con chiên tan lạc, bị sư tử đuổi theo. Trước hết vua A-si-ri đã vồ nuốt nó; nay sau hết Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã làm tan xương nó ra. 18 Vậy nên, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và đất nó, như đã phạt vua A-si-ri. 19 Đoạn ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về trong đồng cỏ nó. Nó sẽ ăn cỏ trên Cạt-mên và Ba-san, lòng nó sẽ được no nê trên các đồi Ép-ra-im và Ga-la-át. 20 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, bấy giờ, người ta sẽ tìm sự gian ác của Y-sơ-ra-ên, mà không có nữa; tìm tội lỗi của Giu-đa, mà chẳng thấy nữa đâu; vì ta sẽ tha tội cho những kẻ trong vòng chúng nó mà ta đã chừa lại.
21 Đức Giê-hô-va phán: Hãy lên đánh đất Mê-ra-tha-im, và dân cư Phê-cốt; hãy giết và diệt hết theo sau nó, và làm y như mọi điều ta đã dặn ngươi! 22 Tiếng kêu về giặc giã vang động trong đất; tai vạ lớn lắm. 23 Cái búa của cả đất đã bị bẻ gãy là dường nào! Ba-by-lôn đã trở nên hoang vu giữa các nước là dường nào! 24 Hỡi Ba-by-lôn, ta đã gài bẫy, và ngươi đã mắc vào mà không biết! Ngươi đã bị tìm và bắt được, vì đã tranh cạnh cùng Đức Giê-hô-va. 25 Đức Giê-hô-va đã mở kho khí giới mình, lấy binh khí của sự thạnh nộ ra; vì Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, có việc phải làm ra trong đất người Canh-đê. 26 Hãy đến từ bờ cõi rất xa nghịch cùng nó; hãy mở kho tàng nó ra, chất lên như đống, hãy diệt hết cả, đừng để lại chút gì! 27 Hãy giết mọi bò đực nó, đem xuống hàng thịt! Khốn nạn cho chúng nó, vì ngày chúng nó đã đến, ấy là kỳ thăm phạt chúng nó! 28 Hãy nghe tiếng kêu của kẻ đi trốn, của những kẻ thoát khỏi đất Ba-by-lôn, đặng rao ra trong Si-ôn sự báo thù của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, sự báo thù về đền thờ Ngài.
29 Hãy gọi hết thảy những kẻ cầm cung, mọi người giương cung đến đánh Ba-by-lôn; đóng trại chung quanh nó; đừng để cho ai thoát khỏi! Hãy theo công việc nó mà báo trả, làm cho nó trọn như nó đã làm; vì nó lên mình kiêu ngạo nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 30 Vậy nên, bọn trai trẻ nó sẽ ngã trên các đường phố, và trong ngày đó, những người đánh giặc của nó sẽ phải nín lặng, Đức Giê-hô-va phán vậy. 31 Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Hỡi dân kiêu ngạo, nầy, ta hờn giận ngươi: vì ngày ngươi đã đến, ấy là kỳ ta sẽ thăm phạt ngươi. 32 Kẻ kiêu ngạo sẽ xiêu tó, vấp ngã, không ai dựng lại. Ta sẽ đốt lửa nơi các thành nó, thiêu nuốt mọi sự chung quanh.
33 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa thảy cùng nhau chịu hà hiếp. Phàm những kẻ bắt chúng nó đi làm phu tù đều giữ chúng nó lại, chẳng khứng thả ra. 34 Đấng Cứu chuộc chúng nó là mạnh mẽ, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân. Ngài sẽ đối nại việc chúng nó chắc chắn, đặng cho cả đất được yên nghỉ, và làm bối rối dân cư Ba-by-lôn. 35 Đức Giê-hô-va phán: Gươm dao ở trên người Canh-đê, trên dân cư Ba-by-lôn, trên các quan trưởng và các người khôn ngoan nó. 36 Gươm dao ở trên những người khoe khoang, chúng nó sẽ nên người dại dột! Gươm dao ở trên những kẻ mạnh mẽ, chúng nó sẽ bị kinh khiếp! 37 Gươm dao ở trên những xe, ngựa, cùng mọi dân lộn giống giữa nó, chúng nó sẽ trở nên như đàn bà! Gươm dao ở trên những kho tàng nó đều bị cướp giựt! 38 Sự hạn hán ở trên các dòng nước nó đều bị cạn khô! Vì ấy là xứ những tượng chạm, chúng nó vì thần tượng mà điên cuồng. 39 Vậy nên, những thú rừng nơi sa mạc sẽ cùng chó rừng làm ổ tại đó, những chim đà cũng choán làm chỗ ở mình; Ba-by-lôn sẽ không hề có dân cư nữa, vả từ đời nầy đến đời kia người ta sẽ không ở đó. 40 Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ giống như Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các thành lân cận, khi Đức Chúa Trời hủy diệt các thành ấy; sẽ không có dân ở nữa, chẳng một con người nào đến trú ngụ tại đó.
41 Nầy, một dân đến từ phương bắc; một nước lớn và nhiều vua từ các phương đất rất xa bị xui giục. 42 Họ cầm cung và giáo, hung dữ chẳng có lòng thương xót. Tiếng họ giống như biển gầm; hỡi con gái Ba-by-lôn, họ đã cỡi ngựa mà đến, dàn trận để đánh ngươi. 43 Vua Ba-by-lôn đã nghe tin đó, thì tay người trở nên rã rời; sự buồn rầu bắt lấy người như cơn đau của người đàn bà đang đẻ.
44 Nầy, kẻ thù như sư tử lên từ các rừng rậm rạp của Giô-đanh mà nghịch cùng chỗ ở kiên cố. Thình lình, ta sẽ làm cho người Canh-đê trốn khỏi, và lập người mà ta đã chọn cai trị nó. Vì, ai giống như ta? Ai sẽ định kỳ cho ta? Ai là kẻ chăn đứng được trước mắt ta? 45 Vậy hãy nghe mưu Đức Giê-hô-va đã toan nghịch cùng Ba-by-lôn, và ý định Ngài đã lập nghịch cùng đất người Canh-đê. Thật, những con nhỏ trong bầy chúng nó sẽ bị kéo đi, làm cho nơi ở chúng nó trở nên hoang vu! --- 46 Nghe tiếng Ba-by-lôn bị bắt lấy, đất đều rúng động, và có tiếng kêu nghe ra giữa các nước.

50

Boh Hiăp Yahweh Kơ Tơlơi Dêh Čar Babilon

1Yahweh brơi boh hiăp anai kơ kâo, pô pơala Yirmeyah, kơ tơlơi plei phŭn Babilon laih anŭn dêh čar Babilon:
  2“Laĭ pơthâo hăng pơhaih bĕ amăng ƀing lŏn čar!
   Yơr đĭ bĕ hla gru kiăng kơ abih bang mơnuih ƀuh
   hăng pơhaih bĕ kiăng kơ abih bang mơnuih hơmư̆!
  Anăm pơkơ̆ng glaĭ tơlơi hơget ôh samơ̆ laĭ bĕ tui anai,
   ‘Arăng či blah mă hĭ plei phŭn Babilon.
  Plei phŭn Babilon či tŭ tơlơi blah mă yơh,
   yang rơba̱ng gơñu Bêl či tŭ tơlơi mlâo mlañ yơh,
   sĭt yang rơba̱ng Marduk anŭn či bă hăng tơlơi pơhuĭ.
  Khul rup trah ñu či tŭ tơlơi mlâo mlañ yơh,
   sĭt khul rup anŭn či bă hăng tơlơi pơhuĭ yơh.’
  3Ƀing ling tơhan mơ̆ng sa boh dêh čar mơ̆ng gah dư̱r či rai kơsung blah plei phŭn anŭn
   laih anŭn ngă kơ anih lŏn ñu anŭn jing hĭ rơngol yơh.
  Abih dua mơnuih mơnam hăng hlô mơnơ̆ng či čơlah đuaĭ hĭ yơh,
   tơl ƀu hơmâo djuai mơnơ̆ng pă ôh dưi hơdip amăng anih anŭn.

  4“Amăng khul hrơi mông anŭn,
   ƀing ană plei Israel hăng ƀing ană plei Yudah hrŏm hơbĭt
   či rai hia hơduah kơ Kâo, Yahweh Ơi Adai gơñu yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  5“Ƀing gơñu či tơña kơ jơlan nao pơ anih Ziôn
   laih anŭn wĕh ƀô̆ mơta gơñu anăp nao pơ anih anŭn yơh.
  Ƀing gơñu či nao pơgop gơñu pô hăng Kâo, Yahweh,
   hăng tơlơi pơgop hlŏng lar yơh
   jing tơlơi ƀing gơñu ƀu či pơjŏh hĭ dơ̆ng tah.

  6“Ană plei Kâo hơmâo jing laih kar hăng triu rơngiă.
   Ƀing pô wai gơñu hơmâo dui ba laih ƀing gơñu jrôk hĭ jơlan
   laih anŭn lui hĭ ƀing gơñu đuaĭ hyu amăng khul čư̆ čan yơh.
  Sĭt ƀing gơñu đuaĭ hyu ƀơi čư̆ čan hăng ƀơi bŏl čư̆
   laih anŭn wơr bĭt hĭ anih pơdơi gơñu pô yơh.
  7Tơdang ƀing rŏh ayăt gơñu hơduah ƀuh ƀing gơñu,
   ƀing rŏh ayăt anŭn lun ƀơ̆ng hĭ ƀing gơñu,
   hăng laĭ tui anai, ‘Ƀing ta ƀu soh ôh,
  yuakơ ƀing gơñu ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ laih hăng Yahweh, jing Pô răk wai gơñu kar hăng triu Ñu pô.
   Sĭt ƀing gơñu pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh, jing Pô ơi adon gơñu đaŏ kơnang yơh.’

  8“Ơ ƀing Israel hơi, đuaĭ kơdŏp bĕ mơ̆ng plei phŭn Babilon.
   Đuaĭ hĭ bĕ mơ̆ng dêh čar ƀing Babilon,
   laih anŭn đuaĭ blung hlâo mơtam bĕ, kar hăng khul bơbe tơno ba akŏ kơ tơpul.
  9Đuaĭ bĕ yuakơ Kâo či pơsur hăng ba rai sa grup ƀing gŏp djru,
   jing ƀing dêh čar kơtang mơ̆ng anih lŏn gah dư̱r
   kiăng kơ kơsung blah hăng dêh čar Babilon yơh.
  Ƀing gơñu či pơdă tơlơi pơblah ƀơi tơdron blah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng dêh čar Babilon.
   Sĭt ƀing dêh čar mơ̆ng gah dư̱r yơh či blah juă hĭ dêh čar Babilon.
  Ƀing tơhan gơñu jing rơgơi biă mă,
   jing ƀing ƀu pơnăh hraŏ đôč đač ôh.
  10Tui anŭn, ƀing gơñu či sua mă hĭ dêh čar Babilon yơh.
   Abih bang hlơi pô sua mă dêh čar Babilon či hơmâo hơdôm tơlơi ƀing gơñu kiăng yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  11“Ơ ƀing Babilon, jing ƀing sua mă laih lŏn čar kŏng ngăn Kâo, jing lŏn čar Yudah,
   ƀing gih hơ̆k kơdơ̆k hăng mơak mơai,
  sĭt ƀing gih hơ̆k mơak kar hăng rơmô ania juă pơdai
   laih anŭn mơñi mơhĕ̱ kar hăng khul aseh tơno yơh.
  12Plei phŭn Babilon, jing kar hăng amĭ gih, či mlâo mlañ biă mă.
   Sĭt pô tơkeng rai kơ ƀing gih anŭn či tŭ tơlơi pơmlâo yơh.
  Plei gih anŭn či jing hĭ plei anet hloh amăng khul plei ƀơi lŏn tơnah,
   jing kar hăng sa tơdron tač,
   laih anŭn kar hăng sa tơdron ha̱r thu krô hlo̱m ƀo̱m yơh.
  13Yuakơ tơlơi hil Kâo, Yahweh yơh, ƀu či hơmâo hlơi pô ôh dŏ amăng plei Babilon anŭn dơ̆ng.
   Sĭt plei anŭn či jing hĭ anih rơngol hlo̱m ƀo̱m yơh.
  Abih bang ƀing hlơi pô găn nao pơ anŭn či hơƀak drak hăng djik djak yơh
   yuakơ abih bang tơlơi răm rai ñu.

  14“Ơ abih bang ƀing gih jing ƀing wă̱ hraŏ hơi,
   pơdă bĕ tơlơi pơblah gih pơkơdơ̆ng glaĭ hăng plei phŭn Babilon laih anŭn wang dar plei anŭn.
  Pơnăh bĕ ƀơi ƀing gơñu! Anăm pioh glaĭ khul ƀrŏm hraŏ pă ôh,
   yuakơ ƀing plei anŭn hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo, Yahweh laih.
  15Ur dreo bĕ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng plei anŭn ƀơi rĭm bơnăh!
   Sĭt ƀing gơñu jao hĭ gơñu pô,
   khul sang kơtŭm plei gơñu glưh hĭ,
   hăng khul pơnăng plei gơñu ăt glưh pơčah hĭ mơ̆n.
  Rŭ nua ƀơi ƀing gơñu bĕ!
   Ngă bĕ kơ ƀing gơñu kar hăng ƀing gơñu hơmâo ngă laih kơ ƀing pơkŏn,
   yuakơ anŭn jing tơlơi rŭ nua Yahweh yơh.
  16Mă pơđuaĭ hĭ bĕ pô jŭ pla mơ̆ng dêh čar Babilon,
   laih anŭn pô pĕ hơpuă hăng mơnêk amăng bơyan hơpuă mơ̆n.
  Brơi bĕ rĭm čô mơ̆ng khul anih ataih wơ̆t glaĭ pơ ƀing ană plei ñu pô
   laih anŭn brơi bĕ rĭm čô anŭn đuaĭ kơdŏp bĕ pơ anih ñu pô,
   yuakơ tơlơi pơblah ƀing kơtư̆ juă anŭn.”

  17Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Ƀing Israel jing kar hăng sa tơpul triu bơbe čơlah đuaĭ
   jing kar hăng khul rơmung dŭl kiaŏ mă laih yơh.
  Pô blung hlâo lun ƀơ̆ng hĭ ƀing gơñu,
   anŭn jing pơtao prŏng dêh čar Assiria yơh.
  Pô hơnăl tuč pơjŏh hĭ khul tơlang gơñu,
   anŭn jing Nebukhadnezzar pơtao prŏng dêh čar Babilon yơh.”
18Hơnŭn yơh, anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang, jing Ơi Adai ƀing Israel, pơhiăp:
  “Kâo či pơkơhma̱l hĭ pơtao prŏng dêh čar Babilon wơ̆t hăng anih lŏn ñu yơh
   jing kar hăng Kâo pơkơhma̱l hĭ laih pơtao prŏng dêh čar Assiria yơh.
  19Samơ̆ bơ kơ ƀing Israel, jing kar hăng tơpul triu Kâo,
   Kâo či ba wơ̆t glaĭ pơ đang rơ̆k gơñu pô
   kiăng kơ ƀơ̆ng rơ̆k ƀơi čư̆ Karmel hăng ƀơi anih lŏn Basan yơh.
  Hlŭng ñu či trơi hrăp yơh
   ƀơi khul bŏl čư̆ anih lŏn Ephraim hăng anih lŏn Gilead.
  20Amăng khul hrơi mông anŭn,
   Kâo či kơsem kơ tơlơi soh Israel,
  samơ̆ ƀu či hơduah ƀuh ôh,
   laih anŭn kơ khul tơlơi soh Yudah,
  samơ̆ ăt kŏn hơduah ƀuh lơi,
   yuakơ Kâo pap brơi ƀing dŏ so̱t, jing ƀing Kâo pioh hơdip anŭn yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  21“Ơ ƀing rŏh ayăt dêh čar Babilon hơi,
   kơsung blah bĕ ƀing anih lŏn Merathayim
   laih anŭn ƀing hlơi pô hơdip amăng anih lŏn Pekôd.
  Kiaŏ mă bĕ, pơdjai hăng pơrai hĭ hlo̱m ƀo̱m bĕ ƀing gơñu.
   Ngă bĕ abih bang tơlơi Kâo hơmâo pơđar laih kơ ƀing gih.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  22“Dơnai tơlơi pơblah truh laih amăng anih lŏn gơñu anŭn,
   jing dơnai tơlơi răm rai prŏng prin yơh!
  23Dêh čar Babilon jing kar hăng mơmu̱t pơrai hĭ abih lŏn tơnah anŭn!
   Samơ̆ mơmu̱t anŭn hơmâo tŭ mă laih tơlơi pơphač hĭ.
   Dêh čar Babilon jing hĭ gơnam huĭ hyưt biă mă yơh
   amăng abih bang ƀing lŏn čar!
  24Ơ Babilon hơi, Kâo, Yahweh, ƀač čơđo̱ng kơ ih,
   laih anŭn ih djơ̆ hĭ čơđo̱ng samơ̆ ih ƀu thâo ôh.
   Ƀing rŏh ayăt ih hơduah ƀuh ană plei ih laih anŭn mă mơnă hĭ ƀing gơñu
   yuakơ ih pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo, Yahweh, yơh.
  25Kâo, Yahweh, hơmâo pŏk laih anih răk pioh gơnam pơblah Kâo
   laih anŭn ba tơbiă khul gơnam pơblah yuakơ tơlơi hil Kâo hăng ih.
  Kâo, Khua Yang Yahweh Dưi Kơtang, hơmâo bruă kiăng kơ ngă yơh
   amăng anih lŏn ih, dêh čar Babilon anŭn.
  26Ơ ƀing rŏh ayăt dêh čar Babilon hơi,
   rai bĕ mơ̆ng khul anih ataih gih kiăng kơ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ñu yơh.
  Taih pơčah hĭ bĕ ñu kar hăng taih pơčah hĭ bah amăng khul atông pơdai.
   Pơƀut glaĭ bĕ ană plei ñu kar hăng pơƀut khul ƀu̱r pơdai.
  Pơrai hĭ bĕ ƀing gơñu hlo̱m ƀo̱m
   laih anŭn ƀu pioh glaĭ hlơi pô dŏ so̱t ôh.
  27Pơdjai hĭ bĕ abih bang ƀing ling tơhan ñu,
   kar hăng rơmô tơno hadơi trŭn nao pơ anih arăng pơdjai hlô mơnơ̆ng yơh.
  Răm ƀăm yơh kơ ƀing Babilon anŭn, hrơi gơñu hơmâo truh laih,
   jing mông kơ ƀing gơñu tŭ tơlơi pơkơhma̱l yơh.”

  28Kâo, pô pơala Yirmeyah, pơhiăp tui anai, “Hơmâo ƀing đuaĭ kơdŏp mơ̆ng dêh čar Babilon nao dŏ pơ anih Ziôn
   hăng pơhaih kơ tơlơi hiư̆m Yahweh Ơi Adai ta hơmâo rŭ nua laih ƀơi ƀing Babilon,
   jing tơlơi rŭ nua ƀơi ƀing gơñu yuakơ sang yang Ñu yơh.”

  29Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Iâu pơƀut glaĭ bĕ ƀing pơnăh hraŏ,
   jing abih bang ƀing thâo wă̱ hraŏ anŭn
   kiăng kơ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng plei phŭn Babilon.
  Pơkăng đĭ bĕ abih bang anih jưh jum dar plei anŭn.
   Anăm brơi hlơi pô đuaĭ tơklaih hĭ ôh.
  Kla glaĭ bĕ kơ ƀing gơñu yuakơ khul bruă sat ƀing gơñu hơmâo ngă laih.
   Ngă bĕ kơ ƀing gơñu tui hăng tơlơi bruă ƀing gơñu hơmâo ngă laih kơ mơnuih pơkŏn.
  Ngă bĕ tui anŭn yuakơ plei anŭn hơmâo pơgao pơang ñu pô pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo, Yahweh,
   jing Pô Rơgoh Hiam ƀing Israel.
  30Hơnŭn yơh, amăng hrơi anŭn ƀing hlak ai đah rơkơi ñu či djai hĭ mơ̆ng tơlơi blah ƀơi khul jơlan plei phŭn Babilon.
   Laih anŭn abih bang ƀing ling tơhan ñu, ƀing rŏh ayăt či pơdjai hĭ tơl ƀing gơ̆ dŏ rơiăt hĭ yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  31“Lăng bĕ, Ơ pô pơang hơi, Kâo pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ih yơh,
   yuakơ hrơi ih hơmâo truh laih,
   jing mông kơ ih tŭ tơlơi pơkơhma̱l yơh.”
  Anŭn yơh jing tơlơi Khua Yang Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp pơhaih laih.
  32“Ơ ƀing Babilon hơi, dêh čar pơang gih či tơhneč hăng rơbuh hĭ
   laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô djru kơ ñu tơgŭ ôh.
  Kâo či pơtŏ đĭ apui amăng khul plei pla ñu
   kiăng kơ apui ƀơ̆ng hĭ abih bang hlơi dŏ jum dar yơh.”
33Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp dơ̆ng:
  “Ƀing ană plei Israel hrŏm hăng ƀing ană plei Yudah tŭ arăng kơtư̆ juă.
   Abih bang ƀing mă mơnă hĭ ƀing gơ̆ dŏ gak wai ƀing gơ̆ yơh,
   ƀing gơñu hơngah ƀu brơi kơ ƀing gơ̆ tơbiă nao rơngai ôh.
  34Samơ̆ Kâo, jing Pô Song Mă ƀing gơ̆, jing kơtang.
   Yahweh Dưi Kơtang yơh jing anăn Kâo.
  Kâo či hur har pơgang brơi tơhơnal tơlơi ƀing gơ̆ yơh
   kiăng kơ ba rai tơlơi rơnŭk rơnua kơ anih lŏn ƀing gơ̆ anŭn,
   samơ̆ ba tơlơi rŭng răng yơh kơ ƀing ană plei hơdip amăng dêh čar Babilon.”

  35Yahweh pơhiăp tui anai, “Brơi bĕ đao gưm yơh pơrai hĭ ƀing Babilon!
   Brơi bĕ đao gưm pơrai hĭ ƀing ană plei dêh čar Babilon
   laih anŭn pơrai hĭ ƀing khua moa ñu wơ̆t hăng ƀing rơgơi ñu mơ̆n!
  36Brơi đao gưm yơh pơrai hĭ ƀing pô pơala ƀlŏr Babilon!
   Ƀing gơñu jing hĭ ƀing mlŭk mơgu yơh.
   Brơi bĕ đao gưm yơh pơrai hĭ ƀing ling tơhan khĭn kơtang ñu!
   Ƀing gơñu jing hĭ ƀing huĭ bra̱l yơh.
  37Brơi bĕ đao gưm yơh pơrai hĭ khul aseh hăng khul rơdêh aseh Babilon.
   Brơi bĕ đao gưm pơrai hĭ abih bang ƀing ling tơhan blah apăh jing ƀing pơblah brơi kơ ñu mơ̆n!
  Ƀing tơhan kơtang anŭn jing hĭ tơdu kar hăng ƀing đah kơmơi yơh.
   Brơi bĕ đao gưm yơh pơrai hĭ khul mŭk dram ñu!
   Mŭk ñu anŭn či jing hĭ tơlơi sua mă yơh.
  38Tơlơi kho̱ng yơh či pơrai hĭ ƀơi khul ia Babilon!
   Khul ia ñu či jing hĭ thu krô yơh.
  Abih bang tơlơi truh sat anŭn či truh
   yuakơ dêh čar Babilon jing anih lŏn khul rup trah,
   jing khul rup trah či pơhưt pơdư hĭ ƀing Babilon yơh.

  39“Tui anŭn, khul hlô tơdron ha̱r hăng khul asâo hueng či hơdip pơ anih anŭn,
   hrŏm hăng čim tŏ tơdron ha̱r jing čim ƀu rơgoh yơh.
  Mơnuih mơnam ƀu či dŏ amăng anih anŭn dơ̆ng tah
   čơdơ̆ng mơ̆ng rơnŭk anai hlŏng truh pơ abih bang rơnŭk tơdơi yơh.
  40Kar hăng Kâo, Ơi Adai, pơrai hĭ hlo̱m ƀo̱m plei pơnăng Sedôm hăng plei pơnăng Gomôrrah đưm hlâo adih yơh
   hrŏm hăng khul plei pla jum dar anŭn,
   tui anŭn Kâo ăt či pơrai hĭ Babilon mơ̆n,
   tơl ƀu hơmâo hlơi pô ôh dŏ amăng anih anŭn.”
  Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  41“Lăng bĕ adih! Sa tơpul ling tơhan hlak rai mơ̆ng dêh čar gah dư̱r.
   Sĭt sa boh dêh čar prŏng hrŏm hăng ƀing pơtao lu lŏn čar pơkŏn yơh
   prap pre kiăng kơ pơblah mơ̆ng anih lŏn ataih biă mă yơh.
  42Ƀing gơñu djă̱ khul hraŏ laih anŭn khul tơbăk gơñu.
   Ƀing gơñu kheñ đet ƀu thâo pap mơñai ôh.
   Tơdang ƀing gơñu đĭ rai ƀơi khul aseh gơñu,
   dơnai gơñu jing kar hăng rơsĭ pơgrao yơh.
  Ƀing gơñu kơsung rai kar hăng ƀing mơnuih prap pre kơ tơlơi pơblah
   kiăng kơ kơsung blah ih yơh, Ơ plei phŭn Babilon hơi.
  43Pơtao dêh čar Babilon hơmâo hơmư̆ laih khul tơlơi pơthâo kơ tơlơi ƀing rŏh ayăt anŭn,
   tui anŭn tơngan ñu jing hĭ tơdu yơh.
  Ñu bă hăng tơlơi rơngot hơning,
   laih anŭn tơlơi ruă ñu jing kar hăng đah kơmơi jĕ či đih apui yơh.
  44Kar hăng sa drơi rơmung dŭl đĭ rai mơ̆ng glai kơpa̱l kơtuai Yurdan
   kiăng nao pơ đang rơ̆k mơda kiăng kơ hơduah hlô mơnơ̆ng.
  Kâo ăt či puh pơđuaĭ hĭ mơtam ƀing dêh čar Babilon mơ̆ng anih lŏn gơñu nao pơ anih ataih mơ̆n.
   Kâo či ruah pô git gai kơ lŏn čar gơñu.
  Hlơi jing pô hrup hăng Kâo laih anŭn jing pô khĭn bưp Kâo lĕ?
   Khua git gai pă dưi dŏ dơ̆ng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo lĕ?
  45Hơnŭn yơh, hơmư̆ bĕ tơlơi Kâo, Yahweh, hơmâo pơkra laih hơdră pơkơdơ̆ng glaĭ hăng dêh čar Babilon,
   jing tơlơi Kâo, Yahweh, hơmâo pơphŭn rai laih kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng anih lŏn ƀing Babilon tui anai:
  Ƀing rŏh ayăt Babilon či puh pơđuaĭ hĭ ƀing ană plei wơ̆t hăng ƀing čơđai jing kar hăng ană tơpul triu bơbe anŭn yơh.
   Laih anŭn ƀing gơñu či pơrai hĭ hlo̱m ƀo̱m đang rơ̆k đang hơma hăng sang ƀing gơ̆
   laih anŭn anih lŏn ƀing gơ̆ či jing hĭ rơngol yơh.
  46Dơnai tơlơi lê̆ rơbuh dêh čar Babilon či jing prŏng biă mă tơl lŏn tơnah či tơtư̆ tơtơ̆ng yơh.
   Asăp ñu arăng či hơmư̆ tŏng krah djŏp djang lŏn čar yơh.”