10

Sự sai bảy mươi môn đồ đi

(Mat 11:25-27; 13:16-17)

1 Kế đó, Chúa chọn bảy mươi môn đồ khác, sai từng đôi đi trước Ngài, đến các thành các chỗ mà chính Ngài sẽ đi.
2 Ngài phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít. Vậy, hãy xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình. 3 Hãy đi; nầy, ta sai các ngươi đi, khác nào như chiên con ở giữa bầy muông sói. 4 Đừng đem túi, bao, giày, và đừng chào ai dọc đường. 5 Hễ các ngươi vào nhà nào, trước hết hãy nói rằng: Cầu sự bình an cho nhà nầy! 6 Nếu nhà đó có người nào đáng được bình an, sự bình an của các ngươi sẽ giáng cho họ; bằng không, sẽ trở về các ngươi. 7 Hãy ở nhà đó, ăn uống đồ người ta sẽ cho các ngươi, vì người làm công đáng được tiền lương mình. Đừng đi nhà nầy sang nhà khác. 8 Hễ các ngươi vào thành nào, mà người ta tiếp rước, hãy ăn đồ họ sẽ dọn cho. 9 Hãy chữa kẻ bịnh ở đó, và nói với họ rằng: Nước Đức Chúa Trời đến gần các ngươi. 10 Song hễ các ngươi vào thành nào, họ không tiếp rước, hãy đi ra ngoài chợ, mà nói rằng: 11 Đối với các ngươi, chúng ta cũng phủi bụi của thành các ngươi đã dính chân chúng ta; nhưng phải biết nước Đức Chúa Trời đã đến gần các ngươi rồi. 12 Ta phán cùng các ngươi, đến ngày cuối cùng, thành Sô-đôm sẽ chịu nhẹ hơn thành nầy.
13 Khốn cho mầy, thành Cô-ra-xin! Khốn cho mầy, thành Bết-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa bay, đem làm trong thành Ty-rơ và thành Si-đôn, thì hai thành ấy đã mặc áo gai và đội tro mà ăn năn từ lâu rồi. 14 Vậy, đến ngày phán xét, thành Ty-rơ và thành Si-đôn sẽ chịu nhẹ hơn bay. 15 Còn mầy, thành Ca-bê-na-um, mầy sẽ được nhắc lên tận trời sao? Không, sẽ bị hạ xuống tới dưới Âm phủ! 16 Ai nghe các ngươi, ấy là nghe ta; ai bỏ các ngươi, ấy là bỏ ta; còn ai bỏ ta, ấy là bỏ Đấng đã sai ta.
17 Bảy mươi môn đồ trở về cách vui vẻ, thưa rằng: Lạy Chúa, vì danh Chúa các quỉ cũng phục chúng tôi. 18 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã thấy quỉ Sa-tan từ trời sa xuống như chớp. 19 Nầy, ta đã ban quyền cho các ngươi giày đạp rắn, bò cạp, và mọi quyền của kẻ nghịch dưới chân; không gì làm hại các ngươi được. 20 Dầu vậy, chớ mừng vì các quỉ phục các ngươi; nhưng hãy mừng vì tên các ngươi đã ghi trên thiên đàng.

Tin lành tỏ ra cho trẻ con

(Mat 11:25-27)

21 Cũng giờ đó, Đức Chúa Jêsus nức lòng bởi Đức Thánh Linh, bèn nói rằng: Lạy Cha, là Chúa trời đất, tôi ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu những sự nầy với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ, mà tỏ ra cho trẻ nhỏ hay! Thưa Cha, phải, thật như vậy, vì Cha đã thấy điều đó là tốt lành. 22 Cha ta đã giao mọi sự cho ta; ngoài Cha không ai biết Con là ai; ngoài Con, và người nào mà Con muốn tỏ ra cùng, thì cũng không có ai biết Cha là ai.
23 Đoạn, Ngài xây lại cùng môn đồ mà phán riêng rằng: Phước cho mắt nào được thấy điều các ngươi thấy! 24 Vì ta nói cùng các ngươi, có nhiều đấng tiên tri và vua chúa ước ao thấy điều các ngươi thấy, mà chẳng từng thấy, ước ao nghe điều các ngươi nghe, mà chẳng từng nghe.

Thí dụ về người Sa-ma-ri nhân lành

25 Bấy giờ, một thầy dạy luật đứng dậy hỏi đặng thử Đức Chúa Jêsus rằng: Thưa thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời? 26 Ngài phán rằng: Trong luật pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó? 27 Thưa rằng: Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi và yêu người lân cận như mình 28 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đáp phải lắm; hãy làm điều đó, thì được sống.
29 Song thầy ấy muốn xưng mình là công bình, nên thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Ai là người lân cận tôi? 30 Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán rằng: Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô, lâm vào tay kẻ cướp, nó giựt lột hết, đánh cho mình mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết. 31 Vả, gặp một thầy tế lễ đi xuống đường đó, thấy người ấy, thì đi qua khỏi. 32 Lại có một người Lê-vi cũng đến nơi, lại gần, thấy, rồi đi qua khỏi. 33 Song có một người Sa-ma-ri đi đường, đến gần người đó, ngó thấy thì động lòng thương; 34 bèn áp lại, lấy dầu và rượu xức chỗ bị thương, rồi rịt lại; đoạn, cho cỡi con vật mình đem đến nhà quán, mà săn sóc cho. 35 Đến bữa sau, lấy hai đơ-ni-ê đưa cho chủ quán, dặn rằng: Hãy săn sóc người nầy, nếu tốn hơn nữa, khi tôi trở về sẽ trả. 36 Trong ba người đó, ngươi tưởng ai là lân cận với kẻ bị cướp? 37 Thầy dạy luật thưa rằng: Ấy là người đã lấy lòng thương xót đãi người. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, làm theo như vậy.

Ma-thê và Ma-ri

38 Khi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đường, đến một làng kia, có người đàn bà, tên là Ma-thê, rước Ngài vào nhà mình. 39 Người có một em gái, tên là Ma-ri, ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài. 40 Vả, Ma-thê mảng lo về việc vặt, đến thưa Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi. 41 Chúa đáp rằng: Hỡi Ma-thê, Ma-thê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; 42 nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được.

10

Yêsu Pơkiaŏ Tơjuhpluh-Dua Čô Nao Pơtô

1Tơdơi kơ anŭn ƀiă, Khua Yêsu jao bruă kơ tơjuhpluh-dua čô pơkŏn dơ̆ng kiăng kơ pơkiaŏ ƀing gơñu tơdua čô nao hlâo kơ Ñu amăng rĭm plei pla jing anih Ñu pô jĕ či nao. 2Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơmâo lu biă mă yơh pơdai tơsă, samơ̆ mơnuih nao yuă hơpuă ƀiă biă mă. Hơnŭn yơh, ƀing gih rơkâo bĕ kơ Ơi Adai, jing Khua kơ bruă yuă hơpuă anŭn, kiăng kơ Ñu pơkiaŏ nao ƀing mă bruă nao yuă hơpuă pơdai Ñu. 3Nao bĕ! Anai nê, Kâo pơkiaŏ nao ƀing gih kar hăng ană triu nao pơ tŏng krah asâo tan. 4Anăm djă̱ ba kơdŭng prăk, kơdŭng gơnam laih anŭn klĭ juă, laih anŭn dơ̆ng, anăm pơhiăp kơkuh sui ôh hăng arăng ƀơi jơlan nao.
5“Sang pă ƀing gih mŭt, blung hlâo ƀing gih laĭ bĕ hăng pô sang tui anai, ‘Rơkâo tơlơi rơnŭk rơno̱m dŏ amăng sang anŏ anai.’ 6Tơdah pơ sang anŭn, pô sang prap pre kiăng kơ tŭ ju̱m ƀing gih hăng tơlơi rơnŭk rơno̱m, sĭt tơlơi rơnŭk rơno̱m gih či dŏ hrŏm hăng pô anŭn yơh; samơ̆ tơdah pô sang ƀu tŭ ju̱m ƀing gih ôh, tơlơi rơnŭk rơno̱m ƀing gih bơni hiam anŭn ƀu či truh kơ ƀing gơñu ôh. 7Ƀing gih ăt dŏ bĕ amăng sang ju̱m ƀing gih anŭn, ƀơ̆ng huă bĕ hơget gơnam ƀơ̆ng ƀing gơ̆ pha brơi, yuakơ pô mă bruă lăp kơ mă tŭ gơnam arăng apăh kơ ñu yơh. Ƀing gih dŏ bĕ pơ anŭn, anăm đuaĭ nao dŏ mơ̆ng rĭm boh sang ôh.
8“Tơdang ƀing gih mŭt nao amăng sa boh plei laih anŭn ƀing ană plei anŭn tŭ ju̱m ƀing gih, ƀơ̆ng huă bĕ hơget gơnam ƀơ̆ng ƀing gơñu yŏng brơi kơ ƀing gih. 9Pơsuaih bĕ ƀing duăm ruă amăng plei anŭn hăng pơhaih bĕ kơ ƀing ană plei anŭn tui anai, ‘Sĭt hrơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai rai pơ ƀing gih laih.’ 10Samơ̆ tơdang ƀing gih mŭt nao amăng sa boh plei laih anŭn ƀing ană plei anŭn ƀu tŭ ju̱m ôh ƀing gih, ƀing gih nao bĕ pơ tŏng krah plei anŭn hăng laĭ tui anai, 11‘Wơ̆t tơdah ƀruih lŏn plei pla gih đo̱m ƀơi tơkai ƀing gơmơi, sĭt ƀing gơmơi ăt tơtŭh sut hĭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gih mơ̆n; samơ̆ brơi kơ ƀing gih thâo bĕ tơlơi anai: Hrơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai rai pơ ƀing gih laih, laih anŭn ƀing gih hơngah hĭ ƀu tŭ mă ôh.’ 12Kâo laĭ kơ ƀing gih jing ƀing ding kơna, amăng hrơi Ơi Adai phat kơđi mơnuih, plei Sedôm đưm đă adih či tŭ pơkơhma̱l plai ƀiă kơ plei ƀu tŭ ju̱m ƀing gih anŭn.”

Klâo Boh Plei Ƀu Đaŏ

(Mathiơ 11:20-24)

13Giŏng anŭn, Yêsu pơhiăp kơ klâo boh plei, jing hơdôm plei Ñu hơmâo ngă laih lu tơlơi mơsêh mơyang laih anŭn Ñu laĭ tui anai, “Răm ƀăm yơh kơ ih, Ơ plei Kôrasin ăh! Răm ƀăm yơh kơ ih, Ơ plei Bêtsaida ăh! Tơdah Kâo nao ngă hơdôm tơlơi mơsêh mơyang amăng plei Tir hăng plei Sidôn đưm đă adih kar hăng Kâo hơmâo ngă laih amăng ƀing gih, sĭt yơh ƀing gơñu hơmâo kơhma̱l hĭ tơlơi soh gơñu sui laih, laih anŭn ƀing gơñu buh ao tâo hăng dŏ amăng hơbâo tơpur kiăng kơ pơrơđah kơ tơlơi ƀing gơñu rơngot hơning yơh. 14Samơ̆ amăng hrơi Ơi Adai či phat kơđi mơnuih mơnam, plei Tir hăng plei Sidôn yơh či tŭ pơkơhma̱l plai ƀiă kơ ƀing gih. 15Laih anŭn bơ kơ ih, Ơ plei Kapharnaoum ăh, ih pơmĭn Ơi Adai či pơpŭ pơdun đĭ ih pơ adai adih hă? Ơ ơh, Ñu či plĕ trŭn ih pơ anih hlung dơlăm Hades adih yơh.”
16Samơ̆ Yêsu pơhiăp hăng ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Hlơi pô hơmư̆ tui ƀing gih, ñu anŭn ăt hơmư̆ tui Kâo mơ̆n, samơ̆ hlơi pô hơngah hĭ ƀing gih, ñu anŭn ăt hơngah hĭ Kâo mơ̆n. Hlơi pô hơngah hĭ Kâo, ñu anŭn hơngah hĭ Pô pơkiaŏ rai Kâo yơh.”

Tơjuhpluh-Dua Čô Ƀing Ding Kơna Glaĭ Mơ̆ng Pơtô

17Tơdang ƀing tơjuhpluh-dua čô ding kơna wơ̆t glaĭ mơ̆ng pơtô, ƀing gơñu klao hơ̆k kơdơ̆k laih anŭn ruai tui anai, “Ơ Khua ăh, yuakơ amăng tơlơi dưi anăn Ih yơh tơdang ƀing gơmơi puh pơđuaĭ hĭ ƀing yang sat, ƀing gơñu ăt gưt kơ ƀing gơmơi mơ̆n!”
18Yêsu laĭ kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Ƀơi mông anŭn, Kâo ƀuh laih yang sat Satan lê̆ trŭn mơ̆ng adai adih kar hăng kơmlă thuơ hĭ laih. 19Anai nê, Kâo hơmâo pha brơi laih kơ ƀing gih tơlơi dưi mơyang dưi rơbat juă ƀơi ala, aguăt laih anŭn ƀing gih ƀu hơmâo tơlơi hyưt ruă ôh. Kâo ăt hơmâo pha brơi laih mơ̆n kơ ƀing gih tơlơi dưi hloh kơ abih bang tơlơi dưi rŏh ayăt gih yơh, laih anŭn dơ̆ng, ƀu hơmâo mơnơ̆ng hơget ôh dưi pơruă hĭ ƀing gih. 20Ƀing gih anăm kơnơ̆ng klao hơ̆k kơdơ̆k yuakơ ƀing yang sat gưt kơ ƀing gih đôč ôh, samơ̆ ăt klao hơ̆k kơdơ̆k bĕ yuakơ Ơi Adai hơmâo čih laih anăn gih amăng adai adih.”

Yêsu Hơ̆k Mơak

(Mathiơ 11:25-27; 13:16, 17)

21Ăt amăng mông anŭn mơ̆n, Yang Bơngăt Hiam pơbă blai Yêsu hăng tơlơi mơak mơai laih anŭn Yêsu laĭ tui anai, “Ơ Ama ăh, Ih jing Khua Yang kơ adai adih laih anŭn kơ lŏn tơnah anai, Kâo bơni hơơč kơ Ih yuakơ Ih hơmâo pơdŏp hĭ laih hơdôm tơlơi anai mơ̆ng ƀing rơgơi ƀing hrăm thâo hluh, samơ̆ ră anai Ih hơmâo pơrơđah laih hơdôm tơlơi anŭn kơ ƀing luă gŭ laih anŭn đaŏ kơ Ih hrup hăng ƀing čơđai. Djơ̆ yơh Ama ăh, Ih ngă tui anŭn yuakơ Ih mơak kiăng kơ ngă yơh.”
22Giŏng anŭn, Yêsu pơhiăp hăng abih bang ƀing ană plei dŏ jum dar Ñu tui anai, “Ama Kâo, jing Ơi Adai, hơmâo jao brơi laih abih bang tơlơi dưi mơyang kơ Kâo. Ƀu hơmâo hlơi pô ôh thâo hơget kơnuih bruă Ană Ơi Adai jing, kơnơ̆ng Ama Ñu đôč thâo, laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô ôh thâo hơget kơnuih bruă Ama Ñu jing, kơnơ̆ng Ană Ơi Adai đôč yơh thâo; laih anŭn dơ̆ng, kơnơ̆ng kơ ƀing hlơi pô Ană Ơi Adai kiăng pơrơđah brơi laih, ƀing gơñu anŭn đôč yơh thâo.”
23Giŏng anŭn, Yêsu wir nao laĭ kơ hơjăn ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Mơyŭn hiam yơh kơ abih bang hlơi pô ƀuh hơdôm mơta tơlơi ƀing gih ƀuh ră anai! 24Kâo laĭ kơ ƀing gih tui anŭn yuakơ hơmâo lu laih ƀing pô pơala laih anŭn ƀing pơtao đưm hlâo adih kiăng kơ ƀuh hơdôm mơta tơlơi ƀing gih ƀuh ră anai, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi ƀuh ôh; ƀing gơñu kiăng kơ hơmư̆ hơdôm mơta tơlơi ƀing gih hơmư̆ ră anai, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi hơmư̆ ôh.”

Pơhơmutu Kơ Pô Samaria Hiam Klă

25Hlak anŭn, hơmâo sa čô nai pơtô thâo hluh tơlơi juăt tơgŭ kiăng kơ tơña lông lăng Yêsu tui anai, “Ơ Nai, hơget tơlơi kâo či ngă kiăng kơ mă tŭ tơlơi hơdip hlŏng lar lĕ?”
26Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Hơget tơlơi Môseh hơmâo čih laih amăng Hră Tơlơi Juăt lĕ? Hiư̆m pă ih đŏk amăng anŭn lĕ?”
27Ñu laĭ glaĭ kơ Yêsu tui anai, “Hră Tơlơi Juăt anŭn laĭ tui anai, ‘Ih khŏm khăp bĕ kơ Khua Yang Ơi Adai ih hăng abih pran jua, abih bơngăt jua, abih tơlơi kơtang laih anŭn hăng abih tơlơi pơmĭn ih,’ laih anŭn, ‘Ih khŏm khăp bĕ kơ mơnuih re̱ng gah ih hrup hăng ih khăp kơ ih pô.’ ”
28Tui anŭn, Yêsu laĭ kơ ñu, “Ih hơmâo laĭ glaĭ djơ̆ biă mă yơh. Ngă bĕ tơlơi anŭn laih anŭn ih či hơmâo tơlơi hơdip anŭn yơh.”
29Samơ̆ ñu kiăng pơhaih tơlơi tơpă ñu pô ƀơi anăp Yêsu, tui anŭn ñu laĭ kơ Yêsu tui anai, “Hlơi pô jing mơnuih re̱ng gah kâo lĕ?”
30Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Hơmâo sa čô amăng kơnung djuai ta mơ̆ng plei Yerusalaim trŭn nao pơ plei Yerêhô, ƀơi jơlan hơmâo ƀing klĕ dŏp mă gơ̆, mă hĭ sum ao dram gơnam gơ̆ hăng taih gơ̆ laih anŭn đuaĭ hĭ, lui hĭ gơ̆ djai mol ƀơi anŭn. 31Anai nê, hơmâo sa čô pô khua ngă yang ta trŭn nao djơ̆ ƀơi jơlan anŭn mơ̆n, samơ̆ tơdang ñu ƀuh pô rơka anŭn, ñu pơpĕ ƀơi akiăng jơlan hăng đuaĭ hĭ mơ̆ng gơ̆. 32Kar kaĭ mơ̆n, hơmâo sa čô mơnuih Lêwi jing pô djru bruă amăng sang yang, nao djơ̆ ƀơi jơlan anŭn mơ̆n, laih anŭn lăng kơ pô rơka anŭn. Ñu ăt pơpĕ ƀơi akiăng jơlan hăng đuaĭ hĭ mơ̆ng gơ̆ mơ̆n. 33Samơ̆ hơmâo sa čô mơnuih Samaria trŭn nao djơ̆ ƀơi jơlan anŭn mơ̆n, tơdang ñu ƀuh pô rơka anŭn, ñu pap biă mă kơ gơ̆. 34Ñu nao pơ pô rơka anŭn, rao pơjrao hĭ gơ̆ hăng ia jâo, ia tơpai laih anŭn pŏn brơi hĭ rơka gơ̆. Giŏng anŭn, ñu yŏng đĭ gơ̆ ƀơi rŏng aseh glai ñu pô hăng pơdiăng ba gơ̆ truh pơ sang jưh kiăng kơ čem rong gơ̆. 35Ƀơi hrơi tŏ tui, ñu mă prăk ñu pô dua denari hăng brơi kơ pô sang jưh anŭn laih anŭn laĭ tui anai, ‘Răk wai brơi ñu đa, laih anŭn tơdah hơdôm pă prăk ih pơhoăč brơi kơ ñu dơ̆ng, tơl kâo glaĭ kâo či kla glaĭ kơ ih yơh.’
36“Pô pă amăng klâo čô anŭn ih pơmĭn pơrơđah kơ tơlơi ñu jing pô re̱ng gah biă mă hăng pô rơka ƀing klĕ dŏp hơmâo pơruă laih anŭn lĕ?”
37Nai pơtô tơlơi juăt laĭ glaĭ tui anai, “Pô pơrơđah tơlơi pap mơñai brơi kơ gơ̆ anŭn yơh.”
 Tui anŭn, Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Nao ngă bĕ hrup hăng pô anŭn hơmâo ngă laih.”

Yêsu Nao Čuă HʼMartha Hăng HʼMari

38Tơdang Yêsu hăng ƀing ding kơna Ñu hlak anăp nao pơ plei prŏng Yerusalaim, ƀing gơñu nao hyu pơtô truh pơ sa boh plei laih anŭn pơ anŭn sa čô đah kơmơi anăn HʼMartha iâu ju̱m ƀing gơñu mŭt amăng sang gơ̆. 39Gơ̆ hơmâo sa čô adơi anăn ñu HʼMari; HʼMari yơh jing pô dŏ be̱r jĕ ƀơi anăp Khua Yang kiăng hơmư̆ tơlơi Ñu pơtô. 40Samơ̆ HʼMartha bŏ hrŏ buih bruă djru lu sư̆ rơbư̆. Tui anŭn, ñu nao pơ Yêsu hăng laĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, Ih ƀu bơngơ̆t ôh hă kơ adơi kâo lui hĭ kâo buih bruă hơjăn kâo đôč? Rơkâo kơ Ih pơđar ñu rai djru kâo bĕ.”
41Laih anŭn Khua Yang laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Ơ HʼMartha, HʼMartha, ih ƀlơ̆ng bơngơ̆t rŭng răng kơ lu mơta tơlơi đơi, 42samơ̆ hơmâo sa mơta tơlơi jing yom pơphan biă mă. HʼMari hơmâo ruah mă laih mơta tơlơi hiam anŭn, tui anŭn ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi mă pơđuaĭ hĭ mơ̆ng gơ̆.”