8

Ví dụ về người gieo giống

(Mat 13:1-23; Mac 4:1-20)

1 Kế đó, Đức Chúa Jêsus đi thành nầy đến thành kia, làng nầy đến làng khác, giảng dạy và rao truyền tin lành của nước Đức Chúa Trời. Có mười hai sứ đồ ở với Ngài. 2 Cũng có mấy người đàn bà đi theo Ngài, là những người đã được cứu khỏi quỉ dữ và chữa khỏi bịnh: Ma-ri, gọi là Ma-đơ-len, từ người bảy quỉ dữ đã ra, 3 Gian-nơ vợ Chu-xa, là quan nội vụ của vua Hê-rốt, Su-xan-nơ và nhiều người khác nữa giúp của cải cho Ngài.
4 Khi có đoàn dân đông nhóm lại, và người hết thảy các thành đều đến cùng Ngài, thì Ngài lấy thí dụ mà phán cùng họ rằng: 5 Người gieo đi ra để gieo giống mình. Khi vãi giống, một phần giống rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết. 6 Một phần khác rơi ra nơi đất đá sỏi, khi mới mọc lên, liền héo đi, vì không có hơi ẩm. 7 Một phần khác rơi vào bụi gai, gai mọc lên với hột giống, làm cho nghẹt ngòi. 8 Lại có một phần khác rơi xuống nơi đất tốt, thì mọc lên, và kết quả, một thành trăm. Đương phán mấy lời đó, Ngài kêu lên rằng: Ai có tai mà nghe, hãy nghe!
9 Môn đồ hỏi Ngài thí dụ ấy có nghĩa gì. 10 Ngài đáp rằng: Đã ban cho các ngươi được biết những sự mầu nhiệm nước Đức Chúa Trời; song, với kẻ khác thì dùng thí dụ mà nói, để họ xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. 11 Nầy, lời thí dụ đó nghĩa như vầy: Hột giống là đạo Đức Chúa Trời. 12 Phần rơi ra dọc đường, là những kẻ đã nghe đạo; nhưng về sau ma quỉ đến, cướp lấy đạo từ trong lòng họ, e rằng họ tin mà được cứu chăng. 13 Phần rơi ra đất đá sỏi là kẻ nghe đạo, bèn vui mừng chịu lấy; nhưng họ không có rễ, chỉ tin tạm mà thôi; nên khi sự thử thách xảy đến, thì họ tháo lui. 14 Phần rơi vào bụi gai, là những kẻ đã nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín. 15 Song phần rơi vào nơi đất tốt, là kẻ có lấy lòng thật thà tử tế nghe đạo, gìn giữ, và kết quả một cách bền lòng.
16 Không ai đã thắp đèn lại lấy thùng úp lại, hay là để dưới giường; nhưng để trên chân đèn, hầu cho ai vào nhà đều thấy sáng. 17 Thật không có điều gì kín mà không phải lộ ra, không có điều gì giấu mà chẳng bị biết và tỏ ra. 18 Vậy, hãy coi chừng về cách các ngươi nghe; vì kẻ đã có, sẽ cho thêm; kẻ không có, sẽ cất lấy sự họ tưởng mình có.

Mẹ và anh em Đức Chúa Jêsus

(Mat 12:46-50; Mac 3:31-35)

19 Mẹ và anh em Đức Chúa Jêsus đến tìm Ngài; song vì người ta đông lắm, nên không đến gần Ngài được. 20 Vậy có kẻ báo cho Ngài biết rằng: Mẹ và anh em thầy ở ngoài, muốn thấy thầy. 21 Nhưng Ngài đáp rằng: Mẹ ta và anh em ta là kẻ nghe đạo Đức Chúa Trời và làm theo đạo ấy.

Cơn bão

(Mat 8:23-27; Mac 4:35-41)

22 Một ngày kia, Ngài xuống thuyền với môn đồ, mà phán rằng: Hãy qua bên kia hồ; rồi đi. 23 Khi thuyền đương chạy, thì Ngài ngủ. Có cơn bão nổi lên trong hồ, nước vào đầy thuyền, đương nguy hiểm lắm. 24 Môn đồ bèn đến thức Ngài dậy, rằng: Thầy ôi, Thầy ôi, chúng ta chết! Nhưng Ngài, vừa thức dậy, khiến gió và sóng phải bình tịnh, thì liền bình tịnh và yên lặng như tờ. 25 Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: Đức tin các ngươi ở đâu? Môn đồ sợ hãi và bỡ ngỡ, nói với nhau rằng: Người nầy là ai, khiến đến gió và nước, mà cũng phải vâng lời người?

Người Giê-ra-sê bị quỉ ám

(Mat 8:28-34; Mac 5:1-20)

26 Kế đó, ghé vào đất của dân Giê-ra-sê, ngang xứ Ga-li-lê. 27 Khi Đức Chúa Jêsus lên bờ, có một người ở thành ấy bị nhiều quỉ ám đi gặp Ngài. Đã lâu nay, người không mặc áo, không ở nhà, song ở nơi mồ mả. 28 Người ấy vừa thấy Đức Chúa Jêsus, thì la lên inh ỏi, và đến gieo mình nơi chân Ngài, nói lớn tiếng rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời Rất Cao, tôi với Ngài có sự chi chăng? Tôi cầu xin Ngài đừng làm khổ tôi. 29 Vì Đức Chúa Jêsus đương truyền cho tà ma phải ra khỏi người đó mà nó ám đã lâu; dầu họ giữ người, xiềng và còng chân lại, người cứ bẻ xiềng tháo còng, và bị quỉ dữ đem vào nơi đồng vắng. 30 Đức Chúa Jêsus hỏi người rằng: Mầy tên gì? Người thưa rằng: Quân đội; vì nhiều quỉ đã ám vào người. 31 Chúng nó bèn cầu xin Đức Chúa Jêsus đừng khiến mình xuống vực sâu.
32 Vả, ở đó có một bầy heo đông đương ăn trên núi. Các quỉ xin Đức Chúa Jêsus cho chúng nó nhập vào những heo ấy, Ngài bèn cho phép. 33 Vậy, các quỉ ra khỏi người đó, nhập vào bầy heo, bầy heo từ trên bực cao đâm đầu xuống hồ và chết chìm. 34 Các kẻ chăn heo thấy vậy, chạy trốn, đồn tin ấy ra trong thành và trong nhà quê.
35 Thiên hạ bèn đổ ra xem việc mới xảy ra; khi họ đến cùng Đức Chúa Jêsus, thấy người mà các quỉ mới ra khỏi ngồi dưới chân Đức Chúa Jêsus, mặc áo quần, bộ tỉnh táo, thì sợ hãi lắm. 36 Những người đã xem thấy sự lạ đó, thuật lại cho thiên hạ biết người bị quỉ ám được cứu khỏi thế nào.
37 Hết thảy dân ở miền người Giê-ra-sê xin Đức Chúa Jêsus lìa khỏi xứ họ, vì họ sợ hãi lắm. Ngài bèn xuống thuyền trở về. 38 Người đã khỏi những quỉ ám xin phép ở với Ngài, nhưng Đức Chúa Jêsus biểu về, mà rằng: 39 Hãy về nhà ngươi, thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ngươi. Vậy người ấy đi, đồn khắp cả thành mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm cho mình.

Con gái Giai-ru và người đàn bà đau huyết

(Mat 9:18-26; Mac 5:21-43)

40 Khi trở về, có đoàn dân đông rước Ngài; vì ai nấy cũng trông đợi Ngài. 41 Có người cai nhà hội tên là Giai-ru đến sấp mình xuống nơi chân Đức Chúa Jêsus, xin Ngài vào nhà mình. 42 Vì người có con gái một mười hai tuổi gần chết.
 Khi Đức Chúa Jêsus đương đi, dân chúng lấn ép Ngài tứ phía.
43 Bấy giờ, có một người đàn bà đau bịnh mất huyết mười hai năm rồi, cũng đã tốn hết tiền của về thầy thuốc, không ai chữa lành được, 44 đến đằng sau Ngài rờ trôn áo; tức thì huyết cầm lại. 45 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ai rờ đến ta? Ai nấy đều chối; Phi-e-rơ và những người đồng bạn thưa rằng: Thưa thầy, đoàn dân vây lấy và ép thầy. 46 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Có người đã rờ đến ta, vì ta nhận biết có quyền phép từ ta mà ra. 47 Người đàn bà thấy mình không thể giấu được nữa, thì run sợ, đến sấp mình xuống nơi chân Ngài, tỏ thật trước mặt dân chúng vì cớ nào mình đã rờ đến, và liền được lành làm sao. 48 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi con gái ta, đức tin ngươi đã chữa lành ngươi; hãy đi cho bình an.
49 Ngài còn đương phán, có kẻ ở nhà người cai nhà hội đến nói với người rằng: Con gái ông chết rồi; đừng làm phiền thầy chi nữa. 50 Song Đức Chúa Jêsus nghe vậy, phán cùng Giai-ru rằng: Đừng sợ, hãy tin mà thôi, thì con ngươi sẽ được cứu. 51 Khi đến nhà, Ngài chỉ cho Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng, và cha mẹ con ấy vào cùng Ngài. 52 Ai nấy đều khóc lóc than vãn về con đó. Nhưng Ngài phán rằng: Đừng khóc, con nầy không phải chết, song nó ngủ. 53 Họ biết nó thật chết rồi, bèn nhạo báng Ngài. 54 Nhưng Đức Chúa Jêsus cầm lấy tay con ấy, gọi lớn tiếng lên rằng: Con ơi, hãy chờ dậy! 55 Thần linh bèn hoàn lại, con ấy chờ dậy liền; rồi Ngài truyền cho nó ăn. 56 Cha mẹ nó lấy làm lạ; nhưng Ngài cấm nói lại sự xảy ra đó với ai.

8

Phung Mniê Tui Hlue Yêsu

1Êdei ƀiă tinăn, Yêsu nao găn ƀuôn prŏng leh anăn ƀuôn điêt mtô leh anăn hưn klei mrâo mrang jăk kơ ƀuôn ala mtao Aê Diê. Phung pluh dua čô ƀĭng kna hiu mbĭt hŏng Ñu, 2 leh anăn mâo đa đa phung mniê hlao leh mơ̆ng klei yang jhat ngă leh anăn klei ruă duam: H'Mari mơ̆ng ƀuôn Madala, mơ̆ng ñu yơh kjuh čô yang jhat kbiă đuĕ leh, 3H'Yôana mô̆ Y-Kusa, dĭng buăl kiă kriê sang Hêrôt, H'Susana, leh anăn lu phung mkăn; phung mniê anăn yua dŏ dô diñu čiăng đru Yêsu leh anăn phung ƀĭng kna Ñu.

Klei Bi Hriêng kơ Pô Rah Mjeh

(Mat 13:1-9; Mark 4:1-9)

4Tơdah phung lu bi kƀĭn mbĭt, leh anăn phung ƀuôn sang mơ̆ng lu boh ƀuôn mdê mdê hriê kơ Ñu, Yêsu blŭ hlăm klei bi hriêng, 5“Sa čô mnuih rah mjeh nao rah mjeh ñu. Êjai ñu rah, đa đa mjeh lĕ ktuê êlan. Arăng juă leh anăn čĭm hlăm adiê ƀơ̆ng hĕ mjeh anăn. 6Đa đa lĕ ti dlông boh tâo. Leh mjeh anăn čăt, gơ̆ krô hĕ kyuadah amâo mâo êa bi msah ôh. 7Đa đa lĕ hlăm anôk êruê. Êruê čăt mbĭt leh anăn ktư̆ hĕ mdiê anăn. 8Leh anăn mâo đa đa lĕ hlăm anôk lăn jăk, čăt dlông, leh anăn mboh sa asăr sa êtuh.” Leh Ñu blŭ snăn, Ñu lač kraih, “Hlei pô mâo knga thâo hmư̆, brei ñu hmư̆ bĕ!”

Si Ngă Yêsu Blŭ hŏng Klei Bi Hriêng

(Mat 13:10-17; Mark 4:10-12)

9Tơdah phung ƀĭng kna Ñu êmuh Ñu ya čiăng lač klei bi hriêng anăn, 10 Ñu lač, “Aê Diê brei kơ diih dưi thâo săng klei yuôm hgăm kơ ƀuôn ala mtao Aê Diê; ƀiădah kơ phung mkăn kâo blŭ kơ diñu hŏng klei bi hriêng, čiăng kơ êjai diñu dlăng diñu amâo dưi ƀuh ôh, leh anăn êjai diñu hmư̆ diñu amâo dưi thâo săng ôh.”

Yêsu Mblang Klei Bi Hriêng kơ Pô Nao Rah Mjeh

(Mat 13:18-23; Mark 4:13-20)

11“Klei mblang kơ klei bi hriêng anăn snei: mjeh jing klei Aê Diê blŭ. 12Mjeh lĕ ktuê êlan jing phung hmư̆ klei blŭ, ƀiădah yang jhat hriê leh anăn mă hĕ klei blŭ mơ̆ng ai tiê diñu, huĭ kơ diñu đăo leh anăn mâo hĕ klei bi mtlaih. 13Mjeh lĕ ti boh tâo jing phung hmư̆ klei blŭ leh anăn mă tŭ hŏng klei hơ̆k, ƀiădah diñu amâo mâo agha ôh. Diñu đăo knŏng bhiâo, leh anăn tơdah mâo klei lông dlăng diñu lui wir. 14Bi mjeh lĕ hlăm anôk êruê, jing phung hmư̆ leh ƀiădah êjai diñu đuĕ nao, klei uêñ hnĭng, klei mdrŏng, leh anăn klei mơak kơ klei hdĭp anei ktư̆ hĕ diñu, leh anăn diñu amâo mboh tơl ksă ôh. 15Bi mjeh lĕ hlăm lăn jăk, jing phung hmư̆ klei blŭ, djă pioh klei blŭ anăn hlăm ai tiê ênuah leh anăn jăk, leh anăn mboh hŏng klei gĭr.”

Pui Kđen Ti Gŭ Kčaih

(Mark 4:21-25)

16 “Amâo mâo ôh mnuih čuh pui kđen leh anăn găm hĕ gơ̆ hŏng kčaih, amâodah dưm gơ̆ ti gŭ jhưng pĭt, ƀiădah ñu dưm gơ̆ ti gơ̆ng čiăng kơ hlei pô mŭt dưi ƀuh mngač. 17 Kyuadah amâo mâo ôh mnơ̆ng arăng mdăp leh amâo srăng bi êdah, kăn mâo rei mnơ̆ng hgăm arăng amâo srăng bi thâo leh anăn bi êdah mngač. 18 Snăn răng bĕ kơ klei diih hmư̆; kyuadah kơ hlei pô mâo leh, Aê Diê srăng lŏ thiăm brei; ƀiădah kơ hlei pô amâo mâo ôh, wăt mnơ̆ng ñu mĭn ñu mâo leh Aê Diê srăng mă hĕ mơh.”

Amĭ leh anăn Phung Adei Yêsu

(Mat 12:46-50; Mark 3:31-35)

19Hlăk anăn amĭ leh anăn phung adei Yêsu hriê duah Ñu, ƀiădah digơ̆ amâo dưi nao giăm kơ Ñu ôh kyua phung lu. 20Arăng hưn kơ Ñu, “Amĭ ih leh anăn phung adei ih dôk ti êngao čiăng bi tuôm hŏng ih.” 21Ƀiădah Ñu lŏ wĭt lač kơ digơ̆, “Hlei pô hmư̆ klei Aê Diê blŭ leh anăn gưt, phung anăn jing amĭ kâo leh anăn phung ayŏng adei kâo.”

Yêsu Ghă Angĭn Êbŭ

(Mat 8:23-27; Mark 4:35-41)

22Sa hruê Yêsu đĭ hlăm sa boh čhŏng mbĭt hŏng phung ƀĭng kna Ñu. Ñu lač kơ digơ̆, “Brei drei găn nao kơ hang nah dih êa ênao.” Snăn diñu đuĕ nao. 23Êjai angĭn kpuh čhŏng diñu, Yêsu pĭt hĕ. Mâo angĭn êbŭ truh ti êa ênao, leh anăn êa mŭt bŏ čhŏng, leh anăn diñu giăm kram. 24Diñu nao êrâo Yêsu, lač, “Ơ Nai, Ơ Nai, drei djiê yơh!” Yêsu mdih, ghă angĭn leh anăn êa poh yă. Snăn angĭn wăt êa poh yă mdei leh anăn mâo klei êngăn êđăp ênang yơh. 25Yêsu lač kơ digơ̆, “Ti klei đăo diih?” Digơ̆ huĭ, bi kngăr, leh anăn bi lač hdơ̆ng digơ̆, “Hlei pô anei, tơl wăt angĭn leh anăn êa poh yă gưt kơ klei ñu mtă mơh?”

Yêsu Bi Hlao Mnuih Yang Jhat Ngă

(Mat 8:28-34; Mark 5:1-20)

26Diñu truh kơ čar phung Gêrasen phă ngŏ čar Galilê. 27Êjai Yêsu kbiă trŭn ti hang, mâo sa čô mnuih mơ̆ng ƀuôn mâo lu yang jhat ngă bi tuôm hŏng Ñu. Mơ̆ng sui leh gơ̆ dôk lưng mlŭn, leh anăn gơ̆ amâo dôk ôh hlăm sang, ƀiădah dôk hlăm anôk msat. 28Tơdah gơ̆ ƀuh Yêsu, gơ̆ ur, klăm ti anăp Yêsu, leh anăn lač hŏng asăp kraih, “Ya klei ih mâo hŏng kâo, Ơ Yêsu, Anak Aê Diê Pô Ti Dlông Hĭn? Kâo kwưh kơ ih, đăm bi knap kâo ôh.” 29Kyuadah Yêsu mtă leh kơ yang čhŏ brei kbiă mơ̆ng mnuih anăn. Kyuadah jêñ jêñ yang jhat ngă kơ gơ̆; arăng kiă kriê gơ̆ kă hŏng klei săng đai leh anăn bră, ƀiădah gơ̆ bi tloh hĕ klei anăn, leh anăn yang jhat mgô̆ gơ̆ nao hlăm kdrăn tač. 30Yêsu êmuh kơ gơ̆, “Hlei anăn ih?” Gơ̆ lač, “Phung lu,” kyuadah mâo lu yang jhat mŭt leh hlăm gơ̆. 31Leh anăn phung yang jhat kwưh kơ Yêsu đăm mtă kơ diñu nao mŭt hlăm ƀăng êlam ôh! 32Ti ping čư̆ anăn mâo lu drei ŭn duah hiu ƀơ̆ng; leh anăn phung yang jhat kwưh kơ Yêsu brei diñu mŭt hlăm ŭn anăn. Yêsu brei mơh. 33Leh anăn phung yang jhat kbiă mơ̆ng mnuih anăn leh anăn mŭt hlăm ŭn. Jih jang ŭn êran trŭn ping čư̆ dơ̆ng, kdâo hlăm êa ênao, leh anăn djiê mơngăt jih.
34Tơdah phung mgăt ŭn ƀuh klei truh, digơ̆ êran đuĕ leh anăn hưn klei anăn hlăm ƀuôn leh anăn hlăm krĭng anăn. 35Snăn phung ƀuôn sang kbiă nao čiăng dlăng klei truh anăn. Diñu truh kơ Yêsu, leh anăn ƀuh mnuih mơ̆ng gơ̆ anăn phung yang jhat kbiă leh. Gơ̆ dôk gŭ ti jơ̆ng Yêsu, hơô leh čhiăm ao, leh anăn lŏ mâo klei mĭn jăk leh. Leh anăn diñu huĭ. 36Phung ƀuh leh klei truh anăn yăl dliê kơ diñu si klei mnuih yang jhat ngă anăn hlao leh. 37Snăn jih jang phung ƀuôn sang jŭm dar krĭng Gêrasen akâo kơ Yêsu đuĕ mơ̆ng diñu, kyuadah diñu huĭ snăk. Snăn Yêsu đĭ hlăm čhŏng leh anăn đuĕ wĭt. 38Mnuih mâo phung yang jhat mrâo kbiă anăn kwưh čiăng dưi dôk mbĭt hŏng Yêsu. Ƀiădah Yêsu brei gơ̆ wĭt, lač, 39“Wĭt bĕ kơ sang ih, leh anăn hưn jih klei Aê Diê ngă jăk leh kơ ih.” Gơ̆ đuĕ nao leh anăn hưn tar ƀar hlăm ƀuôn jih klei Yêsu ngă leh kơ gơ̆.

Anak Mniê Y-Jairus leh anăn Mniê Ruêh Ao Yêsu

(Mat 9:18-26; Mark 5:21-43)

40Tơdah Yêsu wĭt leh, phung lu drông Ñu, kyuadah jih jang digơ̆ dôk guôn Ñu. 41Mâo sa čô mnuih hriê, anăn ñu Y-Jairus. Ñu jing sa čô khua sang bi kƀĭn. Ñu klăm ti jơ̆ng Yêsu leh anăn kwưh brei Yêsu mŭt hlăm sang ñu, 42kyuadah ñu mâo knŏng sa čô anak mniê hlăm brô pluh dua thŭn giăm djiê.
 Êjai Yêsu nao, phung lu bi knhiêt Ñu.
43Mâo sa čô mniê kluh êrah êjai pluh dua thŭn leh. Gơ̆ bi liê leh jih ngăn dŏ gơ̆ mưn phung aê êa drao, ƀiădah amâo mâo sa čô dưi bi hlao gơ̆ ôh. 44Gơ̆ hriê ti tluôn Ñu, leh anăn ruêh ti knhal ao Yêsu. Bhiâo riâo rit êrah gơ̆ thư̆ mtam. 45Leh anăn Yêsu lač, “Hlei pô ruêh kâo?” Tơdah jih jang hngah, Y-Pêtrôs leh anăn phung mbĭt hŏng ñu lač, “Ơ Nai, phung lu dôk jŭm dar ih bi knhiêt ih.” 46Ƀiădah Yêsu lač, “Mâo sa čô ruêh leh kâo, kyuadah kâo thâo klei myang kbiă leh mơ̆ng kâo.” 47Tơdah mniê anăn thâo kơ gơ̆ amâo dưi mdăp ôh, gơ̆ nao hŏng klei ktư̆ yơ̆ng asei mlei, klăm ti jơ̆ng Yêsu, leh anăn hưn ti anăp jih jang mnuih ya ngă gơ̆ ruêh Yêsu leh anăn si klei gơ̆ hlao leh bhiâo riâo rit. 48Yêsu lač kơ gơ̆, “Ơ Bŭ, klei ih đăo bi hlao ih leh. Nao bĕ êđăp ênang.”
49Êjai Ñu ăt dôk blŭ, mâo sa čô hriê mơ̆ng sang khua sang bi kƀĭn leh anăn lač, “Anak mniê ih djiê leh, đăm lŏ bi dleh Nai ôh.” 50Ƀiădah tơdah Yêsu hmư̆ klei anăn, Ñu lač kơ khua sang bi kƀĭn anăn, “Đăm huĭ ôh, knŏng đăo, leh anăn gơ̆ srăng hlao.” 51Tơdah Yêsu truh ti sang, Ñu amâo brei sa čô mŭt mbĭt hŏng Ñu ôh, knŏng Y-Pêtrôs, Y-Yôhan, Y-Yakơ, leh anăn amĭ ama hđeh anăn. 52Jih jang hia leh anăn čŏk ênguôt kơ mniê anăn. Ƀiădah Yêsu lač, “Đăm čŏk hia ôh, kyuadah gơ̆ amâo djiê ôh, ƀiădah gơ̆ pĭt.” 53Leh anăn phung anăn tlao mưč kơ Ñu, kyuadah digơ̆ thâo kơ hđeh anăn djiê leh. 54Ƀiădah Yêsu djă ti kngan gơ̆ leh anăn iêu gơ̆, lač, “Ơ anak điêt ơi, kgŭ bĕ.” 55Snăn mngăt gơ̆ lŏ wĭt kơ gơ̆ leh anăn gơ̆ kgŭ mtam. Yêsu mtă brei arăng ba mnơ̆ng gơ̆ ƀơ̆ng huă. 56Amĭ ama gơ̆ bi kngăr; ƀiădah Yêsu mtă kơ diñu đăm hưn kơ arăng ôh ya klei truh leh.