8

Ví dụ về người gieo giống

(Mat 13:1-23; Mac 4:1-20)

1 Kế đó, Đức Chúa Jêsus đi thành nầy đến thành kia, làng nầy đến làng khác, giảng dạy và rao truyền tin lành của nước Đức Chúa Trời. Có mười hai sứ đồ ở với Ngài. 2 Cũng có mấy người đàn bà đi theo Ngài, là những người đã được cứu khỏi quỉ dữ và chữa khỏi bịnh: Ma-ri, gọi là Ma-đơ-len, từ người bảy quỉ dữ đã ra, 3 Gian-nơ vợ Chu-xa, là quan nội vụ của vua Hê-rốt, Su-xan-nơ và nhiều người khác nữa giúp của cải cho Ngài.
4 Khi có đoàn dân đông nhóm lại, và người hết thảy các thành đều đến cùng Ngài, thì Ngài lấy thí dụ mà phán cùng họ rằng: 5 Người gieo đi ra để gieo giống mình. Khi vãi giống, một phần giống rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết. 6 Một phần khác rơi ra nơi đất đá sỏi, khi mới mọc lên, liền héo đi, vì không có hơi ẩm. 7 Một phần khác rơi vào bụi gai, gai mọc lên với hột giống, làm cho nghẹt ngòi. 8 Lại có một phần khác rơi xuống nơi đất tốt, thì mọc lên, và kết quả, một thành trăm. Đương phán mấy lời đó, Ngài kêu lên rằng: Ai có tai mà nghe, hãy nghe!
9 Môn đồ hỏi Ngài thí dụ ấy có nghĩa gì. 10 Ngài đáp rằng: Đã ban cho các ngươi được biết những sự mầu nhiệm nước Đức Chúa Trời; song, với kẻ khác thì dùng thí dụ mà nói, để họ xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. 11 Nầy, lời thí dụ đó nghĩa như vầy: Hột giống là đạo Đức Chúa Trời. 12 Phần rơi ra dọc đường, là những kẻ đã nghe đạo; nhưng về sau ma quỉ đến, cướp lấy đạo từ trong lòng họ, e rằng họ tin mà được cứu chăng. 13 Phần rơi ra đất đá sỏi là kẻ nghe đạo, bèn vui mừng chịu lấy; nhưng họ không có rễ, chỉ tin tạm mà thôi; nên khi sự thử thách xảy đến, thì họ tháo lui. 14 Phần rơi vào bụi gai, là những kẻ đã nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín. 15 Song phần rơi vào nơi đất tốt, là kẻ có lấy lòng thật thà tử tế nghe đạo, gìn giữ, và kết quả một cách bền lòng.
16 Không ai đã thắp đèn lại lấy thùng úp lại, hay là để dưới giường; nhưng để trên chân đèn, hầu cho ai vào nhà đều thấy sáng. 17 Thật không có điều gì kín mà không phải lộ ra, không có điều gì giấu mà chẳng bị biết và tỏ ra. 18 Vậy, hãy coi chừng về cách các ngươi nghe; vì kẻ đã có, sẽ cho thêm; kẻ không có, sẽ cất lấy sự họ tưởng mình có.

Mẹ và anh em Đức Chúa Jêsus

(Mat 12:46-50; Mac 3:31-35)

19 Mẹ và anh em Đức Chúa Jêsus đến tìm Ngài; song vì người ta đông lắm, nên không đến gần Ngài được. 20 Vậy có kẻ báo cho Ngài biết rằng: Mẹ và anh em thầy ở ngoài, muốn thấy thầy. 21 Nhưng Ngài đáp rằng: Mẹ ta và anh em ta là kẻ nghe đạo Đức Chúa Trời và làm theo đạo ấy.

Cơn bão

(Mat 8:23-27; Mac 4:35-41)

22 Một ngày kia, Ngài xuống thuyền với môn đồ, mà phán rằng: Hãy qua bên kia hồ; rồi đi. 23 Khi thuyền đương chạy, thì Ngài ngủ. Có cơn bão nổi lên trong hồ, nước vào đầy thuyền, đương nguy hiểm lắm. 24 Môn đồ bèn đến thức Ngài dậy, rằng: Thầy ôi, Thầy ôi, chúng ta chết! Nhưng Ngài, vừa thức dậy, khiến gió và sóng phải bình tịnh, thì liền bình tịnh và yên lặng như tờ. 25 Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: Đức tin các ngươi ở đâu? Môn đồ sợ hãi và bỡ ngỡ, nói với nhau rằng: Người nầy là ai, khiến đến gió và nước, mà cũng phải vâng lời người?

Người Giê-ra-sê bị quỉ ám

(Mat 8:28-34; Mac 5:1-20)

26 Kế đó, ghé vào đất của dân Giê-ra-sê, ngang xứ Ga-li-lê. 27 Khi Đức Chúa Jêsus lên bờ, có một người ở thành ấy bị nhiều quỉ ám đi gặp Ngài. Đã lâu nay, người không mặc áo, không ở nhà, song ở nơi mồ mả. 28 Người ấy vừa thấy Đức Chúa Jêsus, thì la lên inh ỏi, và đến gieo mình nơi chân Ngài, nói lớn tiếng rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời Rất Cao, tôi với Ngài có sự chi chăng? Tôi cầu xin Ngài đừng làm khổ tôi. 29 Vì Đức Chúa Jêsus đương truyền cho tà ma phải ra khỏi người đó mà nó ám đã lâu; dầu họ giữ người, xiềng và còng chân lại, người cứ bẻ xiềng tháo còng, và bị quỉ dữ đem vào nơi đồng vắng. 30 Đức Chúa Jêsus hỏi người rằng: Mầy tên gì? Người thưa rằng: Quân đội; vì nhiều quỉ đã ám vào người. 31 Chúng nó bèn cầu xin Đức Chúa Jêsus đừng khiến mình xuống vực sâu.
32 Vả, ở đó có một bầy heo đông đương ăn trên núi. Các quỉ xin Đức Chúa Jêsus cho chúng nó nhập vào những heo ấy, Ngài bèn cho phép. 33 Vậy, các quỉ ra khỏi người đó, nhập vào bầy heo, bầy heo từ trên bực cao đâm đầu xuống hồ và chết chìm. 34 Các kẻ chăn heo thấy vậy, chạy trốn, đồn tin ấy ra trong thành và trong nhà quê.
35 Thiên hạ bèn đổ ra xem việc mới xảy ra; khi họ đến cùng Đức Chúa Jêsus, thấy người mà các quỉ mới ra khỏi ngồi dưới chân Đức Chúa Jêsus, mặc áo quần, bộ tỉnh táo, thì sợ hãi lắm. 36 Những người đã xem thấy sự lạ đó, thuật lại cho thiên hạ biết người bị quỉ ám được cứu khỏi thế nào.
37 Hết thảy dân ở miền người Giê-ra-sê xin Đức Chúa Jêsus lìa khỏi xứ họ, vì họ sợ hãi lắm. Ngài bèn xuống thuyền trở về. 38 Người đã khỏi những quỉ ám xin phép ở với Ngài, nhưng Đức Chúa Jêsus biểu về, mà rằng: 39 Hãy về nhà ngươi, thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ngươi. Vậy người ấy đi, đồn khắp cả thành mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm cho mình.

Con gái Giai-ru và người đàn bà đau huyết

(Mat 9:18-26; Mac 5:21-43)

40 Khi trở về, có đoàn dân đông rước Ngài; vì ai nấy cũng trông đợi Ngài. 41 Có người cai nhà hội tên là Giai-ru đến sấp mình xuống nơi chân Đức Chúa Jêsus, xin Ngài vào nhà mình. 42 Vì người có con gái một mười hai tuổi gần chết.
 Khi Đức Chúa Jêsus đương đi, dân chúng lấn ép Ngài tứ phía.
43 Bấy giờ, có một người đàn bà đau bịnh mất huyết mười hai năm rồi, cũng đã tốn hết tiền của về thầy thuốc, không ai chữa lành được, 44 đến đằng sau Ngài rờ trôn áo; tức thì huyết cầm lại. 45 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ai rờ đến ta? Ai nấy đều chối; Phi-e-rơ và những người đồng bạn thưa rằng: Thưa thầy, đoàn dân vây lấy và ép thầy. 46 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Có người đã rờ đến ta, vì ta nhận biết có quyền phép từ ta mà ra. 47 Người đàn bà thấy mình không thể giấu được nữa, thì run sợ, đến sấp mình xuống nơi chân Ngài, tỏ thật trước mặt dân chúng vì cớ nào mình đã rờ đến, và liền được lành làm sao. 48 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi con gái ta, đức tin ngươi đã chữa lành ngươi; hãy đi cho bình an.
49 Ngài còn đương phán, có kẻ ở nhà người cai nhà hội đến nói với người rằng: Con gái ông chết rồi; đừng làm phiền thầy chi nữa. 50 Song Đức Chúa Jêsus nghe vậy, phán cùng Giai-ru rằng: Đừng sợ, hãy tin mà thôi, thì con ngươi sẽ được cứu. 51 Khi đến nhà, Ngài chỉ cho Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng, và cha mẹ con ấy vào cùng Ngài. 52 Ai nấy đều khóc lóc than vãn về con đó. Nhưng Ngài phán rằng: Đừng khóc, con nầy không phải chết, song nó ngủ. 53 Họ biết nó thật chết rồi, bèn nhạo báng Ngài. 54 Nhưng Đức Chúa Jêsus cầm lấy tay con ấy, gọi lớn tiếng lên rằng: Con ơi, hãy chờ dậy! 55 Thần linh bèn hoàn lại, con ấy chờ dậy liền; rồi Ngài truyền cho nó ăn. 56 Cha mẹ nó lấy làm lạ; nhưng Ngài cấm nói lại sự xảy ra đó với ai.

8

Máh Cũai Mansễm Ca Pỡq Parnơi Cớp Yê-su

1Vớt ki, Yê-su mut tâng sa‑ữi vil cớt vil toâr cớp atỡng parnai o tễ Yiang Sursĩ táq sốt. Tỗp muoi chít la bar náq rien tễ án pỡq parnơi cớp án tê. 2Cớp bữn máh mansễm hỡ pỡq cớp Yê-su. Tễ máh mansễm ki bữn án ca yiang sâuq payốh, ma Yê-su khoiq tuih aloŏh, cớp bữn án ca Yê-su táq bán tễ sa‑ữi ramứh a‑ĩ. Máh mansễm ki, ramứh neq: Muoi la Mari tễ vil Mac-dala. Án ca bữn tapul lám yiang sâuq khoiq loŏh tễ tỗ án. 3Bar la Yô-ana, lacuoi Chusa. Chusa táq ranáq yỗn puo Hê-rôt. Pái la Su-sana. Cớp bữn sa‑ữi náq mansễm canŏ́h hỡ. Nheq alới ĩt práq alới bữm dŏq chuai Yê-su cớp tỗp rien tễ án bữn crơng sana cha.

Parnai Sacâm Tễ Cũai Trứh Ŏ́c

(Mathia 13:1-9; Mac 4:1-9)

4Clứng lứq cũai toâq pỡ Yê-su tễ sa‑ữi vil. Chơ Yê-su atỡng alới na parnai sacâm neq: 5“Bữn manoaq cũai pỡq trứh ŏ́c. Bo án trứh, bữn ŏ́c satooh tâng rana. Cũai tĩn ŏ́c ki cớp chớm tot cha. 6Bữn ŏ́c canŏ́h satooh tâng cutễq sa‑ữi tamáu. Toâq ŏ́c ki dáh, án cỡt roŏh nheq, yuaq ŏ́q dỡq. 7Bữn ŏ́c canŏ́h satooh tâng cutễq bữn rêh bát sarlia. Tữ bát sarlia dáh, án éc chíq bát mbỡiq dáh tễ ŏ́c cũai ki trứh. 8Cớp bữn ŏ́c canŏ́h ễn satooh tâng cutễq o. Ŏ́c ki dáh cớp toâr achỗn, chơ cỡt palâi. Muoi nỡm cỡt muoi culám ŏ́c.”
 Yê-su pai ễn neq: “Aléq bữn cutũr yoc ễ tamứng, ki tamứng.”

Nŏ́q Yê-su Atỡng Toâq Parnai Sacâm

(Mathia 13:10-17; Mac 4:10-12)

9Tỗp rien tễ Yê-su blớh án tễ parnai nâi la sacâm ntrớu. 10Yê-su ta‑ỡi alới neq: “Máh parnai cutooq tễ Yiang Sursĩ táq sốt, Yiang Sursĩ yỗn anhia dáng. Ma cũai canŏ́h tamứng bĩq parnai sacâm sâng. Ngkíq alới nhêng ma tỡ bữn hữm; alới tamứng ma tỡ bữn sapúh.”

Yê-su Aloŏh Ngê Tễ Parnai Sacâm Cũai Trứh Ŏ́c

(Mathia 18:13-23; Mac 4:13-20)

11“Ngê tễ parnai sacâm ki la neq: Ŏ́c cũai ki trứh la sacâm tễ cũai pỡq atỡng parnai Yiang Sursĩ. 12Ŏ́c satooh tâng rana, la sacâm tễ cũai ca tamứng parnai Yiang Sursĩ, ma yiang Satan toâq ĩt chíq parnai ki tễ mứt pahỡm alới, táq yỗn alới tỡ têq sa‑âm. Chơ yỗn Yiang Sursĩ tỡ têq chuai amoong alới. 13Ŏ́c satooh tâng cutễq bữn tamáu la sacâm tễ cũai ca tamứng parnai Yiang Sursĩ cớp sa‑âm parnai ki bũi o lứq. Ma parnai ki tỡ bữn mut tâng mứt pahỡm alới. Alới sa‑âm mahỗi sâng. Chơ toâq alới ramóh túh coat alới tanĩq cỗ tian alới sa‑âm, chơ alới tỡ ễq sa‑âm noâng. 14Ŏ́c satooh tâng cutễq bữn sa‑ữi bát sarlia, la sacâm tễ cũai ca tamứng parnai Yiang Sursĩ, ma alới lua cứt tâng dỡi nâi, ham sốc, cớp ham thrưong. Máh ramứh ki éc chíq parnai o tễ Yiang Sursĩ, táq yỗn alới tỡ bữn cỡt palâi. 15Ma ŏ́c satooh tâng cutễq o la sacâm tễ cũai ca tamứng parnai Yiang Sursĩ, cớp alới bữn mứt pahỡm o, yoc yám noap Yiang Sursĩ. Alới cayớm dŏq níc parnai ki, chơ toâq ngư bữn palâi, alới cỡt palâi sa‑ữi lứq.”

Yê-su Patâp Cũai Pasếq Parnai Án

(Mac 4:21-25)

16“Tỡ bữn noau tacât chớp tớu, chơ catứp chóq khang tỡ la dŏq nhưp cachơng bếq. Ma lứq noau dŏq chớp tớu tâng rông, yỗn án claq poang nheq clống ki. Ngkíq cũai mut tâng ki têq hữm raloaih. 17Machớng ki tê, ramứh ntrớu cứq cutooq sanua, chumát cứq yỗn nheq tữh cũai dáng raloaih máh ramứh ki. Cớp ramứh ntrớu cứq catáng sanua, chumát cứq tỡ bữn catáng noâng.
18“Parnai ntrớu anhia sâng cứq atỡng, cóq anhia pasếq lứq parnai ki. Cũai aléq khoiq bữn chơ, cứq lứq yỗn án bữn sa‑ữi lứq ễn. Ma cũai aléq tỡ bữn bữn, máh ŏ́c án bữn, lứq cỡt pứt loah nheq.”

Mpiq Cớp Sễm Ai Yê-su

(Mathia 12:46-50; Mac 3:31-35)

19Mpiq cớp sễm ai Yê-su toâq ễ ramóh Yê-su, ma alới tỡ têq mut pỡ án, yuaq tadát máh cũai tâng dống. 20Bữn cũai toâq atỡng Yê-su neq: “Mpiq cớp sễm ai thâi ỡt yáng tiah ễ ramóh thâi.”
21Ma Yê-su atỡng loah alới neq: “Mpiq cớp sễm ai cứq la máh cũai ca tamứng cớp trĩh parnai Yiang Sursĩ.”

Yê-su Sưoq Cuyal Cớp Dỡq

(Mathia 8:23-27; Mac 4:35-41)

22Bữn muoi tangái, Yê-su chỗn tâng tuoc cớp tỗp rien tễ án. Yê-su pai chóq alới neq: “Hái clong yáng tooh dỡq clóng nâi.”
 Chơ alới clong.
23Toâq mpứng dĩ dỡq, Yê-su bếq. Ma bo ki bữn cuyal rapuq hâp lứq, táq yỗn dỡq carsaiq amut tâng tuoc, mán ễ poân. Chơ alới croŏq lứq. 24Tỗp rien tễ Yê-su toâq amoaih án. Alới pai neq: “Thâi ơi, thâi ơi! Hái cheq ễ cuchĩt.”
 Yê-su yuor tayứng. Án sưoq cuyal cớp dỡq lampóh. Chơ cuyal cớp dỡq ki tangứt, cớp cỡt ien khễ loah.
25Yê-su blớh tỗp rien tễ án neq: “Nŏ́q anhia tỡ bữn sa‑âm?”
 Ma alới sâng dớt cớp ngcŏh lứq. Manoaq pai chóq manoaq neq: “Cũai nâi la noau? Án sưoq cuyal cớp dỡq, chơ cuyal cớp dỡq trĩh án!”

Yê-su Tuih Aloŏh Yiang Sâuq Tễ Tỗ Cũai

(Mathia 8:28-34; Mac 5:1-20)

26Alới clong yáng tooh dỡq clóng toâq pỡ cruang Yê-rasê. Cruang nâi ỡt choâng cớp cruang Cali-lê. 27Bo Yê-su sễng tễ tuoc, bữn manoaq samiang tễ vil ki bữn yiang sâuq payốh, toâq pỡ Yê-su. Cũai ki ỡt mu rariat khoiq dũn chơ. Án tỡ bữn ỡt tâng dống, ma án ỡt níc tâng clỗm cumuiq. 28Tữ án hữm Yê-su, án hễr casang lứq, sacốh racớl, cớp pai casang lứq neq: “Ntrớu anhia yoc ễ táq chóq cứq Yê-su? Anhia la Con Yiang Sursĩ, án ca sốt clữi nheq tễ canŏ́h. Cứq sễq anhia chỗi táq tỗiq bap cứq.”
29Án pai ngkíq, yuaq Yê-su khoiq ớn án loŏh tễ tỗ cũai ki. Sa‑ữi trỗ chơ yiang sâuq táq cũai ki. Cớp khân cũai canŏ́h cỗp cớp sacáp án toâq sái-sô, tỡ la clữong toâq panũar, án táq ta-ŏh nheq. Cớp yiang sâuq dốq dững án pỡq chu ntốq aiq.
30Yê-su blớh cũai ki neq: “Ntrớu ramứh mới?”
 Cũai ki ta‑ỡi: “Ramứh cứq la Poâl.”
 Án pai ngkíq, yuaq bữn sa‑ữi yiang sâuq ỡt tâng tỗ án.
31Máh yiang sâuq ki sễq Yê-su chỗi ớn alới pỡq chu pống sarloac.
32Tâng cóh ki bữn muoi cantóh alic sa‑ữi lứq chuaq cha. Ngkíq máh yiang sâuq ki sễq tễ Yê-su yỗn alới mut tâng cantóh alic ki. Yê-su yỗn alới mut. 33Ngkíq máh yiang sâuq loŏh tễ tỗ cũai ki, chơ mut tâng cantóh alic ễn. Cantóh alic ki lúh chái lứq cớp pŏ́ng tễ leh tarhar chu clóng dỡq, chơ cuchĩt clooc nheq.
34Toâq cũai bán tỗp alic hữm cỡt ranáq ngkíq, alới lúh achu atỡng yỗn máh cũai tâng vil cớp tâng rapoq sarái dáng. 35Clứng cũai toâq yoc ễ nhêng ranáq ca mbỡiq cỡt. Alới toâq pỡ Yê-su, cớp alới hữm cũai bữn yiang sâuq payốh ki tacu cheq ayững Yê-su. Án tâc tampâc, cớp tỡ bữn cỡt yúh noâng. Ngkíq alới sâng ngcŏh lứq. 36Máh cũai ca hữm ranáq Yê-su táq chóq cũai bữn yiang sâuq, alới atỡng loah yỗn cũai ca tỡ bữn hữm dáng tê tễ ranáq Yê-su táq yỗn cũai ki cỡt bán.
37Nheq máh cũai tâng cruang Yê-rasê sễq Yê-su pỡq chíq tễ cruang alới, yuaq alới sâng ngcŏh lứq. Chơ Yê-su chỗn tâng tuoc cớp loŏh tễ ntốq ki. 38Cũai ca yiang sâuq khoiq loŏh tễ tỗ, án sễq pỡq cớp Yê-su tê. Ma Yê-su ớn án chu, cớp patâp án neq: 39“Mới chu pỡ dống mới. Chơ mới atỡng loah tễ dũ ranáq Yiang Sursĩ khoiq chuai mới.”
 Ngkíq cũai ki pỡq dũ ntốq tâng vil án, cớp án atỡng loah tễ dũ ranáq Yê-su khoiq táq chuai án.

Yê-su Táq Bán Con Mansễm Yaru Cớp Mansễm Ca Satoaq Au Tuar Án

(Mathia 9:18-26; Mac 5:21-43)

40Tữ Yê-su chu loah coah dỡq clóng ki, bữn cũai clứng tabỡp án bũi o, yuaq alới acoan án tâng ntốq ki. 41Ma bữn manoaq ramứh Yaru toâq pỡ ki tê. Án la cũai ndỡm muoi dống sang tỗp I-sarel tâng vil ki. Án sacốh racớl cớp pũp cheq ayững Yê-su. Án sễq Yê-su toâq pỡ dống án, yuaq con mansễm án a‑ĩ hâp lứq. 42Án bữn ống muoi lám con ki toâp. Mansễm ki mbỡiq muoi chít la bar cumo, ma a‑ĩ cheq ễ cuchĩt.
 Bo Yê-su pỡq tâng rana, clứng lứq cũai nêt Yê-su.
43Cớp bữn manoaq mansễm ỡt ntốq ki bữn a‑ĩ toŏh siet khoiq muoi chít la bar cumo, ma aham tỡ nai yốt. Tĩen práq án ralốh cỗ yỗn noau palai, ma tỡ hữm bán. 44Án cunhoar amut coah clĩ Yê-su, chơ án cuvỡ satoaq chễu au tuar Yê-su. Bo ki toâp aham án yốt.
45Yê-su blớh neq: “Noau satoaq cứq?”
 Ma aléq la tỡ bữn ngin. Chơ Phi-er pai neq: “Thâi ơi! Clứng lứq cũai ỡt cheq thâi, cớp alới nêt thâi.”
46Ma Yê-su pai loah neq: “Bữn cũai satoaq cứq, yuaq cứq sâng chớc loŏh tễ tỗ cứq.”
47Tữ mansễm ca satoaq au Yê-su dáng án tỡ têq cutooq noâng. Ngkíq tỗ án cangcoaih nheq, cớp án pũp asễng cheq ayững Yê-su. Mansễm ki ngin pỡ Yê-su yáng moat máh cũai clứng ki. Án atỡng Yê-su cỗ nŏ́q án toâq satoaq au Yê-su cớp án cỡt bán tháng. 48Yê-su ta‑ỡi án neq: “Niang ơi! Cỗ mới sa‑âm, tỗ mới cỡt bán. Mới chu ien khễ.”
49Bo Yê-su noâng táq ntỡng cớp mansễm ki, bữn manoaq tễ dống Yaru, án ca ndỡm dống sang, toâq pỡ Yaru cớp atỡng án neq: “Con mansễm mới khoiq cuchĩt chơ. Mới chỗi pakhoq noâng thâi.”
50Yê-su sâng cũai ki pai ngkíq, chơ án atỡng Yaru neq: “Chỗi ngcŏh, mới sa‑âm sâng. Ngkếq con mới lứq cỡt bán loah.”
51Tữ Yê-su toâq pỡ dống Yaru, án yỗn Phi-er, Yacỡ, Yang, cớp mpiq mpoaq amŏq ki mut tâng dống cớp án. Ma cũai canŏ́h, án tỡ yỗn mut. 52Nheq máh cũai nhiam atếh amŏq ca khoiq cuchĩt. Ma Yê-su pai neq: “Chỗi nhiam. Án nâi tỡ bữn cuchĩt; án bếq sâng.”
53Alới ca sâng Yê-su pai ngkíq, alới ayê ra‑ac án, yuaq alới dáng raloaih con ki khoiq cuchĩt. 54Ma Yê-su tếc atĩ mansễm ca khoiq cuchĩt, cớp án arô neq: “Amŏq ơi! Mới yuor tayứng!”
55Ngkíq raviei amŏq ki chu loah pỡ án, cớp án yuor toâp. Chơ Yê-su ớn noau yỗn amŏq cha sana. 56Mpiq mpoaq amŏq ki sâng dớt lứq, ma Yê-su patâp alới chỗi yỗn cũai canŏ́h dáng tễ ranáq nâi.