10

Chức vụ Đức Chúa Jêsus tại xứ Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem

(Từ đoạn 10 đến đoạn 13)

Sự để vợ

(Mat 19:1-12; Lu 16:18)

1 Đức Chúa Jêsus từ đó mà đi, qua bờ cõi xứ Giu-đê, bên kia sông Giô-đanh. Đoàn dân đông lại nhóm họp cùng Ngài, Ngài dạy dỗ chúng y như lệ thường. 2 Các người Pha-ri-si bèn đến gần hỏi để thử Ngài rằng: Người nam có phép để vợ mình chăng? 3 Ngài trả lời rằng: Vậy chớ Môi-se dạy các ngươi điều chi? 4 Họ thưa rằng: Môi-se có cho phép viết tờ để và cho phép để vợ. 5 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ấy vì cớ lòng các ngươi cứng cỏi, nên người đã truyền mạng nầy cho. 6 Nhưng từ lúc đầu sáng thế, Đức Chúa Trời làm ra một người nam và một người nữ. 7 Vì cớ đó, người nam lìa cha mẹ mình mà dính díu với vợ; 8 và hai người cùng nên một thịt mà thôi. Như thế, vợ chồng chẳng phải là hai nữa, mà chỉ là một thịt. 9 Vậy, người ta không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp.
10 Khi ở trong nhà, môn đồ lại hỏi Ngài về việc ấy; 11 Ngài phán rằng: Ai để vợ mình mà cưới vợ khác, thì phạm tội tà dâm với người; 12 còn nếu người đàn bà bỏ chồng mình mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội tà dâm.

Những con trẻ

(Mat 19:13-15; Lu 18:15-17)

13 Người ta đem những con trẻ đến cùng Ngài, đặng Ngài rờ chúng nó; nhưng môn đồ trách những kẻ đem đến. 14 Đức Chúa Jêsus thấy vậy, bèn giận mà phán cùng môn đồ rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng cấm chúng nó; vì nước Đức Chúa Trời thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy. 15 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai chẳng nhận lấy nước Đức Chúa Trời như một đứa trẻ, thì chẳng được vào đó bao giờ. 16 Ngài lại bồng những đứa trẻ ấy, đặt tay trên chúng nó mà chúc phước cho.

Người trai trẻ giàu có

(Mat 19:16-30; Lu 18:18-30)

17 Ngài đang ra đi, có một người chạy lại, quì trước mặt Ngài, mà hỏi rằng: Thưa thầy nhân lành, tôi phải làm chi cho được hưởng sự sống đời đời? 18 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Sao ngươi gọi ta là nhân lành? Chỉ có một Đấng nhân lành, là Đức Chúa Trời. 19 Ngươi biết các điều răn: Đừng phạm tội tà dâm; đừng giết người; đừng trộm cướp; đừng làm chứng dối; đừng làm gian; hãy hiếu kính cha mẹ. 20 Người thưa rằng: Lạy thầy, tôi đã giữ mọi điều đó từ khi còn nhỏ. 21 Đức Chúa Jêsus ngó người mà yêu, nên phán rằng: Ngươi còn thiếu một điều. Hãy đi, bán hết gia tài mình, bố thí cho kẻ nghèo khổ, chắc sẽ được của báu ở trên trời, rồi hãy đến mà theo ta. 22 Song nét mặt người nầy rầu rĩ về lời đó, đi ra rất buồn bã, vì có nhiều của lắm.
23 Bấy giờ Đức Chúa Jêsus ngó xung quanh mình, mà phán cùng môn đồ rằng: Kẻ giàu vào nước Đức Chúa Trời khó là dường nào! 24 Môn đồ lấy mấy lời đó làm lạ. Nhưng Đức Chúa Jêsus lại phán rằng: Hỡi các con, những kẻ cậy sự giàu có vào nước Đức Chúa Trời khó là dường nào! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời. 26 Môn đồ lại càng lấy làm lạ, nói cùng nhau rằng: Vậy thì ai được cứu? 27 Đức Chúa Jêsus ngó môn đồ mà rằng: Sự đó loài người không thể làm được, nhưng Đức Chúa Trời thì chẳng thế; vì Đức Chúa Trời làm mọi sự được cả.
28 Phi-e-rơ liền thưa cùng Ngài rằng: Nầy, chúng tôi đã bỏ hết mà đi theo thầy. 29 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, chẳng một người nào vì ta và Tin lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, 30 mà chẳng lãnh được đương bây giờ, trong đời nầy, trăm lần hơn về những nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con, đất ruộng, với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau. 31 Nhưng có nhiều kẻ đầu sẽ nên rốt; có kẻ rốt sẽ nên đầu.

Đức Chúa Jêsus phán trước về sự thương khó mình

(Mat 20:17-19; Lu 18:31-34)

32 Đức Chúa Jêsus và môn đồ đương đi đường lên thành Giê-ru-sa-lem, Ngài thì đi trước; các môn đồ thất kinh, và những người đi theo đều sợ hãi. Ngài lại đem mười hai sứ đồ đi cùng mình ra mà phán về những việc phải xảy đến cho mình, rằng: 33 Nầy, chúng ta lên thành Giê-ru-sa-lem, Con người sẽ bị nộp cho các thầy tế lễ cả cùng các thầy thông giáo; họ sẽ định Ngài phải bị tử hình, và giao Ngài cho dân ngoại. 34 Người ta sẽ nhạo báng Ngài, nhổ trên Ngài, đánh đập Ngài mà giết đi; sau ba ngày, Ngài sẽ sống lại.

Hai con trai của Xê-bê-đê

(Mat 20:20-28)

35 Bấy giờ, Gia-cơ và Giăng, hai con trai Xê-bê-đê, đến gần Ngài mà thưa rằng: Lạy thầy, chúng tôi muốn thầy làm thành điều chúng tôi sẽ xin. 36 Ngài hỏi rằng: Các ngươi muốn ta làm chi cho? 37 Thưa rằng: Khi thầy được vinh hiển, xin cho chúng tôi một đứa ngồi bên hữu, một đứa bên tả. 38 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Các ngươi không biết điều mình xin. Các ngươi có uống được chén ta uống, và chịu được phép báp-têm ta chịu chăng? 39 Thưa rằng: Được. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Các ngươi sẽ uống chén ta uống, và sẽ chịu phép báp-têm ta chịu; 40 nhưng chí như ngồi bên hữu và bên tả ta thì không phải tự ta cho được: Ấy là thuộc về người nào mà điều đó đã dành cho.
41 Mười sứ đồ kia nghe sự xin đó, thì giận Gia-cơ và Giăng. 42 Nhưng Đức Chúa Jêsus gọi họ mà phán rằng: Các ngươi biết những người được tôn làm đầu cai trị các dân ngoại, thì bắt dân phải phục mình, còn các quan lớn thì lấy quyền thế trị dân. 43 Song trong các ngươi không như vậy; trái lại, hễ ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ; 44 còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người. 45 Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.

Người mù ở thành Giê-ri-cô

(Mat 20:29-34; Lu 18:35-43)

46 Kế đó, Đức Chúa Jêsus và môn đồ đến thành Giê-ri-cô. Ngài và môn đồ cùng một đoàn dân đông đang từ đó lại đi, thì có một người ăn mày mù tên là Ba-ti-mê, con trai của Ti-mê, ngồi bên đường. 47 Vì đã nghe nói ấy là Đức Chúa Jêsus, người Na-xa-rét, người vùng la lên mà rằng: Hỡi Đức Chúa Jêsus, con vua Đa-vít, xin thương tôi cùng! 48 Có nhiều kẻ rầy người, biểu nín đi; song người lại kêu lớn hơn nữa rằng: Hỡi con vua Đa-vít, xin thương tôi cùng! 49 Đức Chúa Jêsus dừng lại phán rằng: Hãy kêu người đến. Chúng kêu người mù đến, mà nói rằng: Hãy vững lòng, đứng dậy, Ngài gọi ngươi. 50 Người mù bỏ áo ngoài, bước tới đến cùng Đức Chúa Jêsus. 51 Đức Chúa Jêsus bèn cất tiếng phán rằng: Ngươi muốn ta làm chi cho ngươi? Người mù thưa rằng: Lạy thầy, xin cho tôi được sáng mắt. 52 Đức Chúa Jêsus phán: Đi đi, đức tin ngươi đã chữa lành ngươi rồi. 53 Tức thì người mù được sáng mắt, và đi theo Đức Chúa Jêsus trên đường.

10

Tơlơi Pơlui Rơkơi Bơnai

(Mathiơ 19:1-12; Luk 16:18)

1Giŏng anŭn, Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng anŭn hăng nao pơ tring kwar Yudea laih anŭn găn nao pơ gah ngŏ̱ kơ krong Yurdan. Laih anŭn dơ̆ng, ƀing mơnuih lu rai pơ Ñu laih anŭn tui hăng tơlơi Ñu juăt ngă, Ñu pơtô pơblang kơ ƀing gơñu yơh.
2Ăt hơmâo mơ̆n đơđa ƀing Pharisai rai kiăng kơ lông lăng Yêsu laih anŭn ƀing gơñu tơña tui anai, “Djơ̆ tui hăng Tơlơi Juăt ta mơ̆ kơ sa čô mơnuih dưi lui hĭ bơnai ñu?”
3Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Hơget tơlơi Môseh hơmâo pơđar laih kơ ƀing gih lĕ?”
4Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Môseh brơi kơ rơkơi čih hră kơnăl kơ tơlơi pơlui laih anŭn brơi kơ bơnai ñu đuaĭ hĭ yơh.”
5Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Môseh brơi ngă tui anŭn yuakơ pran jua gih khăng tơl Ñu čih kơ ƀing gih tơlơi juăt anŭn. 6Samơ̆ čơdơ̆ng mơ̆ng phŭn amăng tơlơi hrih pơjing Ơi Adai ‘hrih pơjing ƀing gơñu đah rơkơi hăng đah kơmơi.’ 7‘Yuakơ tơhơnal tơlơi anŭn yơh, đah rơkơi či tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng amĭ ama ñu kiăng kơ pơgop hăng bơnai ñu. 8Laih anŭn dua gơñu jing hĭ sa drơi jan yơh.’ Tui anŭn yơh, ƀing gơñu ƀu djơ̆ jing dua dơ̆ng tah, samơ̆ ƀing gơñu jing hĭ sa yơh. 9Hơnŭn yơh, anăm brơi mơnuih mơnam pơčơlah hĭ ôh hơget tơlơi Ơi Adai hơmâo pơgop laih hăng tơdruă.”
10Tơdang ƀing gơñu dŏ amăng sang dơ̆ng, ƀing ding kơna Yêsu tơña kơ Ñu kơ tơlơi anŭn dơ̆ng. 11Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Hlơi pô lui hĭ bơnai ñu laih anŭn dŏ kơ bơnai pơkŏn, ñu anŭn jing mơnuih klĕ pyu pơkơdơ̆ng glaĭ hăng bơnai ñu hlâo yơh. 12Laih anŭn tơdah bơnai lui hĭ rơkơi ñu laih anŭn dŏ kơ rơkơi pơkŏn, ñu jing mơnuih klĕ pyu yơh.”

Yêsu Bơni Hiam Kơ Ƀing Čơđai

(Mathiơ 19:13-15; Luk 18:15-17)

13Ƀing ană plei ba rai ƀing čơđai pơ Yêsu kiăng Ñu bơni hiam kơ ƀing čơđai anŭn, samơ̆ ƀing ding kơna Yêsu ƀuăh khă kơ ƀing ană plei anŭn. 14Tơdang Yêsu ƀuh kơ tơlơi anŭn, Ñu hil laih anŭn laĭ kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Brơi bĕ kơ ƀing čơđai rai pơ Kâo laih anŭn anăm khă ƀing gơñu ôh, yuakơ hlơi pô hơmâo kơnuih hrup hăng ƀing čơđai anai, ƀing gơñu tŭ tơlơi dưi jing amăng ƀing ană plei Dêh Čar Ơi Adai yơh. 15Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, hlơi pô ƀu či tŭ mă ôh Dêh Čar Ơi Adai kar hăng sa čô čơđai anai, ñu anŭn ƀu či dưi mŭt pơ dêh čar anŭn ôh.” 16Giŏng anŭn, Yêsu kuar mă ƀing čơđai amăng tơngan Ñu, ăh tơngan Ñu ƀơi ƀing gơ̆ laih anŭn bơni hiam kơ ƀing gơ̆ yơh.

Sa Čô Tơdăm Pơdrŏng

(Mathiơ 19:16-30; Luk 18:18-30)

17Tơdang Yêsu čơdơ̆ng nao ƀơi jơlan, hơmâo sa čô mơnuih đuaĭ rai tŏ tơŭt ƀơi anăp Yêsu laih anŭn tơña tui anai, “Ơ Nai hiam klă ăh, hơget tơlơi bruă kâo khŏm ngă kiăng kơ dưi mă tŭ tơlơi hơdip hlŏng lar lĕ?”
18Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Yua hơget ih iâu kơ Kâo jing pô hiam klă lĕ? Kơnơ̆ng hơjăn Ơi Adai đôč yơh jing Pô hiam klă, ƀu hơmâo hlơi pô pơkŏn ôh. 19Ih thâo yơh hơdôm tơlơi juăt anai, ‘Anăm pơdjai mơnuih ôh. Anăm klĕ pyu ôh, anăm klĕ dŏp ôh, anăm ngă gơ̆ng jơlan ƀlŏr kơ arăng ôh, anăm pơlŏm ƀlŏr kơ arăng ôh laih anŭn pơpŭ bĕ kơ amĭ ama ih.’ ”
20Pô tơdăm anŭn pơhaih tui anai, “Ơ Nai ăh, abih bang tơlơi anŭn kâo hơmâo gưt tui laih čơdơ̆ng mơ̆ng kâo dŏ čơđai.”
21Yêsu lăng kơ ñu hăng tơlơi khăp laih anŭn laĭ tui anai, “Dŏ sa tơlơi ih kơƀah. Nao sĭ hĭ bĕ abih bang dram gơnam ih hơmâo laih anŭn pha brơi kơ mơnuih ƀun rin tui anŭn ih či hơmâo kŏng ngăn yom pơphan amăng adai adih yơh. Tơdơi kơ ih ngă laih tơlơi anŭn, brơi kơ ih rai đuaĭ tui Kâo bĕ.”
22Tơdang hơmư̆ kơ tơlơi anŭn, ƀô̆ mơta pô tơdăm anŭn rơngot hơning biă mă, yuakơ ñu pơdrŏng săh biă mă.
23Yêsu lăng jum dar laih anŭn laĭ kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Tơnap biă mă yơh kơ mơnuih pơdrŏng kiăng kơ dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai!”
24Ƀing ding kơna hli̱ng hla̱ng biă mă tơdang hơmư̆ tơlơi Yêsu laĭ anŭn. Samơ̆ Yêsu laĭ dơ̆ng tui anai, “Ơ ƀing čơđai, tơnap biă mă yơh kiăng kơ dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai! 25Sa drơi aseh samô ƀu dưi mŭt găn amăng jrum anet ôh, kar kaĭ mơ̆n, tơnap biă mă kơ sa čô mơnuih pơdrŏng jao ñu pô kiăng kơ dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai.”
26Ƀing ding kơna hli̱ng hla̱ng hloh dơ̆ng laih anŭn pơlaĭ hăng tơdruă gơñu tui anai, “Tơdah ƀing pơdrŏng ƀu dưi klaih ôh, tui anŭn hlơi pô dưi klaih lĕ?”
27Yêsu lăng pơ ƀing gơñu hăng laĭ glaĭ tui anai, “Mơnuih mơnam ƀu dưi pơklaih gơñu pô ôh, samơ̆ Ơi Adai yơh dưi pơklaih brơi kơ abih bang tơlơi.”
28Pêtrôs laĭ kơ Yêsu tui anai, “Bơ kơ ƀing gơmơi jing ƀing ding kơna Ih, ƀing gơmơi hơmâo lui hĭ laih abih bang dram gơnam kiăng kơ đuaĭ tui Ih!”
29Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, ƀu hơmâo hlơi pô ôh, jing pô đuaĭ lui hĭ laih ayŏng adơi amai adơi ñu, amĭ ama ñu, ƀing ană bơnai ñu ƀôdah pưk sang đang hơma ñu yuakơ ñu đaŏ kơ Kâo laih anŭn yuakơ tơlơi pơthâo hiam, 30ƀu či tŭ mă glaĭ ôh sa-rơtuh wơ̆t lu hloh amăng rơnŭk anai kar hăng sang dŏ, ƀing ayŏng adơi amai adơi, amĭ ama, ƀing ană bă laih anŭn khul đang hơma, khul tơlơi kơpĭ kơpe̱t laih anŭn amăng rơnŭk tơdơi, jing tơlơi hơdip hlŏng lar. 31Samơ̆ hơmâo lu mơnuih yom pơphan amăng rơnŭk anai či jing hĭ ƀing đôč đač amăng rơnŭk tơdơi, laih anŭn lu ƀing đôč đač či jing hĭ yom pơphan yơh.”

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Tal Klâo Dơ̆ng Kơ Tơlơi Ñu Či Ruă Nuă Hăng Djai

(Mathiơ 20:17-19; Luk 18:31-34)

32Ƀing gơñu ƀơi jơlan đĭ nao pơ plei Yerusalaim. Yêsu hlak ba jơlan kơ ƀing ding kơna, jing ƀing huĭ bra̱l biă mă. Ƀing mơnuih đuaĭ tui gah rŏng ăt huĭ bra̱l mơ̆n. Sa wơ̆t dơ̆ng Yêsu djă̱ ba ƀing pluh-dua čô ding kơna Ñu amăng anih ƀing gơñu dưi dŏ hơjăn laih anŭn pơhiăp hăng ƀing gơñu kơ tơlơi či truh kơ Ñu tui anai, 33“Hơmư̆ pơñen bĕ, ƀing ta hlak đĭ nao pơ plei Yerusalaim laih anŭn arăng či pơblư̆ jao lui hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih, kơ ƀing khua ngă yang hăng ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt. Ƀing gơñu či klă̱ kơđi jao hĭ Kâo kiăng kơ pơdjai hĭ yơh laih anŭn jao lui hĭ Kâo kơ ƀing mơnuih Tuai. 34Ƀing Tuai anŭn či djik djak kơhak kơčŭh kơ Kâo, taih čŏm hăng pơdjai hĭ Kâo. Klâo hrơi tơdơi kơ anŭn, Kâo či hơdip glaĭ yơh.”

Amĭ Yakơ Hăng Yôhan Rơkâo Tơlơi Yom Pơphan Kơ Dua Čô Ană Ñu

(Mathiơ 20:20-28)

35Giŏng anŭn, Yakơ hăng Yôhan, jing ană Zebedai, nao pơ Yêsu hăng laĭ tui anai, “Ơ Nai ăh, ƀing gơmơi kiăng kơ Ih ngă brơi kơ ƀing gơmơi hơget tơlơi ƀing gơmơi rơkâo.”
36Yêsu tơña tui anai, “Hơget tơlơi ƀing gih kiăng kơ Kâo ngă brơi lĕ?”
37Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Rơkâo kơ Ih brơi bĕ kơ sa čô amăng ƀing gơmơi dŏ be̱r ƀơi gah hơnuă Ih laih anŭn sa čô dŏ be̱r ƀơi gah ieo Ih amăng tơlơi ang yang Ih.”
38Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing gih ƀu thâo hluh ôh tơlơi ƀing gih rơkâo. Ƀing gih dưi găn tơlơi ruă nuă kar hăng Kâo či găn anai ƀôdah tŭ baptem kar hăng hơdră baptem Kâo tŭ anai mơ̆?”
39Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Ơ, ƀing gơmơi dưi.” Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Ƀing gih ăt či găn tơlơi ruă nuă kar hăng Kâo mơ̆n laih anŭn tŭ baptem kar hăng hơdră Kâo tŭ mơ̆n, 40samơ̆ Kâo pô ƀu hơmâo ôh tơlơi dưi kiăng kơ ruah hlơi pô či dŏ ƀơi gah hơnuă laih anŭn ƀơi gah ieo Kâo. Hơdôm anih dŏ anŭn Ơi Adai hơmâo prap pre brơi hlâo laih kơ ƀing hlơi pô Ñu ruah.”
41Tơdang ƀing pluh čô ding kơna pơkŏn hơmư̆ tơlơi anŭn, ƀing gơñu hil kơ Yakơ hăng Yôhan yơh. 42Yêsu iâu rai ƀing gơñu hrŏm hơbĭt hăng laĭ tui anai, “Ƀing gih thâo laih mơ̆n, ƀing mơnuih arăng yap jing ƀing khua djă̱ akŏ ƀing ană plei Tuai hơmâo tơlơi dưi hlo̱m ƀo̱m yơh laih anŭn ƀing khua moa gơñu kơtư̆ juă ƀing ană plei gơñu. 43Bơ kơ ƀing gih, ƀu djơ̆ hrup hăng anŭn ôh. Kơđai glaĭ kơ tơlơi anŭn, tơdah sa čô amăng ƀing gih kiăng kơ jing pô yom pơphan, brơi bĕ pô anŭn jing hĭ ding kơna kơ ƀing gih, 44laih anŭn hlơi pô kiăng kơ jing pô yom pơphan hloh, brơi kơ ñu anŭn jing bĕ hlŭn kơ abih bang ƀing gih. 45Yuakơ Kâo, jing Ană Mơnuih, rai ƀu djơ̆ kiăng kơ arăng mă bruă brơi kơ Kâo ôh, samơ̆ Kâo mă bruă kơ arăng laih anŭn pơsăn tơlơi hơdip Kâo pô kiăng song mă lu mơnuih.”

Yêsu Pơsuaih Pô Bum Mơta Anăn Bartimê

(Mathiơ 20:29-34; Luk 18:35-43)

46Giŏng anŭn, ƀing gơñu truh pơ plei Yerêhô. Tơdang Yêsu hăng ƀing ding kơna Ñu, hrŏm hăng ƀing mơnuih lu, găn amăng plei anŭn, hơmâo sa čô mơnuih bum mơta anăn ñu Bartimê, kiăng laĭ ană Timê, hlak dŏ be̱r ƀơi akiăng jơlan rơkâo da̱n. 47Tơdang ñu hơmư̆ kơ tơlơi anŭn jing Yêsu Pô Nazaret, ñu čơdơ̆ng ur kraih tui anai, “Ơ Yêsu, Ană Tơčô pơtao Dawid hơi, pap mơñai kơ kâo đa!”
48Hơmâo lu mơnuih ƀuăh khă hĭ pô bum anŭn kiăng kơ ñu dŏ rơiăt, samơ̆ ñu ur iâu kraih hloh dơ̆ng tui anai, “Ơ Ană Tơčô pơtao Dawid hơi, rơkâo kơ Ih pap mơñai brơi kơ kâo đa!”
49Yêsu dơ̆ng glaĭ laih anŭn laĭ tui anai, “Iâu ñu rai ñu bĕ.”
 Tui anŭn, ƀing gơñu iâu rai pô bum mơta anŭn hăng laĭ tui anai, “Mơak bĕ! Tơgŭ bĕ! Ñu hlak iâu ih.”
50Pô bum mơta lui hĭ ao phyung ñu, ñu tơgŭ ječ ameč nao pơ Yêsu yơh.
51Yêsu tơña kơ ñu tui anai, “Hơget tơlơi ih kiăng kơ Kâo ngă brơi kơ ih lĕ?”
 Pô bum mơta anŭn laĭ glaĭ, “Ơ Rabbi ăh, kâo kiăng kơ Ih brơi kơ kâo dưi ƀuh rơđah.”
52Yêsu laĭ kơ ñu tui anai, “Nao bĕ, ih suaih laih yuakơ ih đaŏ kơnang kơ Kâo.” Ƀơi mông anŭn mơtam, ñu ƀuh rơđah laih anŭn đuaĭ tui Yêsu kơtuai jơlan yơh.